Ngẫm cười hai chữ nhơn tình éo le

Thứ Sáu, 12/04/2024, 21:35

Vào tháng 7/2022, nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Đình Chiểu, UBND tỉnh Bến Tre chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu trong thời đại ngày nay. Các bài tham luận được NXB Chính trị Quốc gia chọn in trong tập sách cùng tên với chủ đề hội thảo. Trong số đó, khi bàn về “Các hình thức ngôn từ nghệ thuật trong Lục Vân Tiên”, PGS.TS. Trần Đức Ngôn đánh giá: “Cách gieo vần này có vẻ như gượng ép, nhiều từ dùng để gieo vần có vẻ như bị làm sai lệch về ngữ âm để cho phù hợp với vần chân và vần lưng…”.

Nay, ta thử xét các thí dụ đã nêu ra trong tham luận này, liệu có phải “sai lệch về ngữ âm”?

Trong khăn lụy nhỏ chứa chan/ Cảm thương phận tớ mắc nàn khi không”. Mắc nàn là mắc nạn, cách phát âm của người miền Nam mà “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895) ghi nhận, giải thích: “Tai hại, đồng nghĩa với tiếng nạn”, dẫn chứng “Nghèo nàn, tai nàn, mắc nàn, phải nàn, gặp nàn…”. Vậy, sai lệch về ngữ âm chỗ nào, trong khi người miền Nam hiểu như thế, phát âm như thế? Mà, nào riêng gì người miền Nam, ngay cả thi hào Nguyễn Du cũng sử dụng “nàn” đó thôi:

Rằng: “Nàng chút phận hồng nhan

Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương

Ấy là lúc Hồ Tôn Hiến nói về Thúy Kiều sau khi Từ Hải “Khí thiêng khi đã về thần”. Từ nàn này, là theo bản “Từ điển Truyện Kiều” (NXB Khoa học Xã hội - 1993, tr.539) của học giả Đào Duy Anh - với chú thích: “Nàn: Chữ Hán là nan, nói chệch thành nàn, nghĩa là khó khăn, gian nan vất vả” (tr.261).

Ngẫm cười hai chữ nhơn tình éo le -0
Tranh minh họa truyện thơ nôm “Lục Vân Tiên” của họa sĩ Lê Đức Trạch, bản in năm 1897.

Ngư rằng làm đạo rể con/ Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim”. Lòn là luồn, hiểu theo nghĩa: “Cúi xuống mà đi qua, đưa qua, tron vào”. “Tron” có nghĩa là xen vào, đút vào, xỏ vào và dẫn chứng: “Sợi chỉ lòn trôn kim: Sợi chỉ xỏ qua lỗ cây kim, chỉ nghĩa chịu lòn hết cách”, tuy nhiên tự vị này cũng ghi nhận “Luồn: Lòn qua, tron vào, xuyên qua”. Nếu câu thơ trên thay bằng từ “luồn” của cách nói toàn dân như “Xe chỉ luồn kim”. “Luồn thì luồn cửa tiền cửa hậu/ Chớ không thèm luồn bờ giậu chó chui” ắt câu thơ sái vần.

Thỏ vừa ló bóng gà đà gáy tan/ Bao giờ cho tới bắc phang”. “Phang” là phương, bắc phang là bắc phương. Tự vị trên cũng cho biết “Phang: (coi chữ phương) cùng nghĩa là hiểu theo nghĩa: “Một xứ, một hướng, một phía…”.  Rõ ràng, cụ Đồ Chiểu gieo vần chính xác, phù hợp với lời ăn tiếng nói của người miền Nam, dám khẳng định ở đây không hề có sự “sai lệch về ngữ âm”.

Do không hiểu cách phát âm, thổ âm thổ ngữ của người Nam, ông Ngôn đã dẫn tới ý kiến khác cũng ngộ nghĩnh nốt: “Những ví dụ sau đây chứng tỏ rằng, hiện tượng gieo vần lạ của Nguyễn Đình Chiểu là cố ý”.

Ta thử xét các thí dụ đã nêu ra, liệu có phải “hiện tượng gieo vần lạ”?

Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn, Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn nết na”. Thìn là từ cổ, “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895) giải thích: “Sửa sang, răn, giữ”. Hơn 600 năm trước, “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi (1380-1442) đã sử dụng: “Hiềm kẻ say chưng bề tửu sắc/ Họa người thìn được thói cha ông” v.v… Như thế, cụ Đồ Chiểu gieo “thìn” bắt vần với “gìn” là một lẽ tự nhiên, phải là thế, chứ không thể chọn từ nào khác trong ngữ cảnh này. Thế thì, sao lại nói “gieo vần lạ”?

Nếu cho rằng, tác giả “cố ý”, “gieo vần lạ” thì giải thích thế nào với các các câu phổ biến trong lời ăn tiếng nói mà “Việt Nam từ điển” (1931) đã ghi nhận và giải thích: “Thìn: Gìn giữ tính nết cho được tốt, được hay”, văn liệu: “Thìn lòng, Thìn tính, Thằng bé này tính nết thìn lắm”?

“Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ. Của này là của vất vơ”. Từ “vất vơ” là “Lang thang, lông bông: đi vất vơ ngoài đường”, theo “Đại từ điển tiếng Việt” (1999). Người miền Nam cũng hiểu: “Dật dờ, ngã qua ngã lại”. Đặt trong ngữ cảnh sau khi Lục Vân Tiên ra tay “Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dương” cứu Kiều Nguyệt Nga bị cướp cạn, nàng rút trâm đưa chàng “để cầm làm tin”. Nàng nói nhún là “của vất vơ” - hiểu theo nghĩa bóng là vật tầm thường, không giá trị gì. Cách nói này phản ánh tính cách của người Việt nói chung, thí dụ, khách đến chơi nhà, quý khách, chủ nhà đãi cao lương mỹ vị nhưng vẫn khiêm tốn: “Dạ, bữa nay chỉ có dưa muối, cây nhà lá vườn, mời bác vui lòng dùng tạm qua bữa”.

Tương tự, nghe nàng nói nhún, vốn văn võ toàn, chữ nghĩa “đầy mình”, con nhà gia giáo, Lục Vân Tiên thừa hiểu cách nói thanh lịch ấy nên đáp ngay: “của này rất sang”. Từ “vất vơ” trong ngữ cảnh này là hiểu theo nghĩa bóng của cách nói tiêu biểu trong phép xã giao lịch sự của người Việt từ Bắc chí Nam, chứ cụ Đồ Chiểu không hề “cố ý” “gieo vần lạ”.

Ngửa trông lượng rộng văn nhân thế nào? Vân Tiên xem thấy ngạt ngào”. Với từ này, hẳn ta dễ dàng liên tưởng đến một câu trong ca từ của Đoàn Chuẩn - Từ Linh: “Nhớ tới mùa thu năm xưa, gửi nhau phong thư ngào ngạt hương”. “Đại từ điển tiếng Việt” (1999) cho biết: “Ngạt ngào như ngào ngạt”: “Có mùi thơm bốc lên lan tỏa rộng và kích thích vào khứu giác”. Như vậy, bài thơ mà Kiều Nguyệt Nga viết “tám câu năm vần” (thơ Đường luật) không chỉ được viết trên giấy thơm, giấy quý mà còn hàm nghĩa thơ hay, do đó, Vân Tiên mới ngạc nhiên: “Ai dè sức gái tài cao bực này”.

Rõ ràng, cách sử dụng vốn từ của cụ Đồ Chiểu hoàn toàn không phải “gieo vần lạ”, “sai lệch về ngữ âm”. Thiết nghĩ, cách hiểu và đánh giá trong tham luận trên nhất thiết cần có sự trao đổi, góp ý cũng là điều bình thường. Tuy nhiên, có một điều tôi không hiểu nổi là căn cứ lý lẽ gì, ông Ngôn cho rằng: “Trên thực tế, với tài thơ Nguyễn Đình Chiểu, một cách gieo vần chuẩn mực hoàn toàn có thể thực hiện được”. Xin hỏi một một cách nghiêm túc rằng, lấy tiêu chí gì, so sánh gì để biết thế nào là “gieo vần chuẩn mực” trong trường hợp Lục Vân Tiên? Với dẫn chứng về các thí dụ đã nêu, không một ai có thể trả lời nổi, kể cả chính người đã viết ra câu khôi hài mà tôi vừa trích dẫn.

Không những thế, khi đọc truyện thơ nôm của Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu, ta còn gặp những câu “khó hiểu” như: “Nực cười con tạo trớ trinh/ Chữ trinh tráo chác, chữ tình lãng xao”; “Võ Công làm việc trớ trinh/ Dứt tình học Lục, mến tình họ Vương”.

Có phải do sai morat, phải là trớ trêu chứ? Không đâu, “Từ điển truyện Lục Vân Tiên” (NXB TP Hồ Chí Minh - 1989) của Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khắc Thuần ghi nhận và giải thích: “Con tạo trớ trinh: Trời làm những việc oái oăm; làm việc trớ trinh: làm những việc oái oăm hại người” (tr.319).

Liệu chừng trớ trinh có phải là oái ăm?

Cần xem lại nghĩa của từ này: “Oái oăm: Kỳ khôi, hiểm hóc: Chơi những cách oái oăm. Văn liệu: Họa vần thơ giở giọng oái oăm (X.H) - theo “Việt Nam tự điển” (1931); “Trái hẳn bình thường tới mức không ngờ tới được. Cảnh ngộ oái oăm. Tính nết oái oăm. Trò chơi oái oăm” - theo “Đại từ điển tiếng Việt” (1999). Câu thơ “Nực cười con tạo trớ trinh” là hiểu theo nghĩa này.

Còn câu “Võ Công làm việc trớ trinh” lại khác. “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895) giải thích: “Trớ trinh: Nhiều lời dối trá, láo xược. Nói trớ trinh”. Rõ ràng, trớ trinh khác với oái oăm. Cần phải hiểu thêm nghĩa là chỉ việc làm trái với lẽ phải, không tôn trọng chữ tín đã giao kèo trước đó như trường hợp Võ Công đối với Lục Vân Tiên.

Oái oăm và trớ trinh khác nhau, tùy thuộc vào ngữ cảnh. Khác ở chỗ mức độ cao hơn “trái hẳn bình thường” của từ oái oăm, do đó, khi gặp chuyện thì người ta sẽ tức giận đùng đùng, có thể dẫn tới việc làm thiếu kiềm chế. Chẳng hạn, trong tuyện thơ “Sáu Trọng” lưu hành tại Nam Kỳ đầu thế kỷ 20, có chi tiết khi biết vợ ngoại tình, tham tiền phụ nghĩa: “Trọng nghe nàng nói giận thay/ Tao kỳ tam nhựt phân thây hành hình/ Căm loài Võ Hậu trớ trinh/ Sao không suy xét buộc mình bợn nhơ”.

“Trớ trinh” là cách nói của người miền Nam. Nếu trách riêng, chọn lấy mỗi từ trớ, thì trớ có nghĩa là né, tránh. Thí dụ, có người không thích nghe ai bàn chuyện này, vì thế, khi nghe ai nhắc tới liền trớ qua chuyện khác. Cách trớ/ nói trớ này, gần như là “đánh trống lảng”- lảng qua chuyện đang bàn mà mình không thích nghe đến.

Vậy, trong tình huống: “Ơ kìa, nó đã trớ”. Có phải nó đã trớ qua chuyện khác vì không muốn nghe chuyện này? Chưa chắc. Khi trẻ em ói sữa, người ta cũng dùng từ trớ. Đã thế, lại còn sử dụng trong trường hợp lách mình để tránh cái gì đó tác động vào thân thể mình, thí dụ kể lại câu chuyện ẩu đả, có người nhận xét: “Dù bị tấn công tới tấp nhưng anh ta vẫn trớ qua né lại nên vẫn an toàn”. Mà, không chỉ có thế, thí dụ, người này nói: “Chờ hắn từ sáng vẫn chưa thấy tăm hơi đâu”, người kia đoán: “Biết đâu hắn ta đi trớ đường”. Trớ còn nghĩa là sai/ sai đường. Trong Nam nói “đi trớ” là đi lạc.

Nếu có đạo đức, tư cách tốt thì không ai dám làm những việc trớ trinh. Còn nói trớ, tùy trường hợp, người ta vẫn có thể sử dụng. Trong “Tạp bút năm Ất Hợi 1995” (NXB Trẻ-2022), cụ Vương Hồng Sển có nêu ra vài cách nói trớ như với nghệ thuật “hát bội”, sở dĩ người ta nói trớ qua “hát bộ” vì nhằm tránh sự liên tưởng bội trong từ bội bạc, chẳng hay ho gì; kể cả “nghề thợ bạc cũng tránh tiếng bạc/ bội bạc nên đổi thành thợ kim hoàn” (SĐD, tr. 88). Ý kiến này rất để chúng ta suy nghĩ về cách sử dụng từ trong tiếng Việt.

Lê Minh Quốc
.
.