Ba người lính và hạnh phúc của một đại gia đình 

Kỳ I: Từ Thành cổ Quảng Trị đến mái ấm yêu thương

Thứ Bảy, 04/10/2025, 07:15

Chiến tranh đưa họ đến gần nhau bằng một tình yêu trong trẻo như hạt sương đầu ngày đọng trên lá cỏ non. Nhưng cũng chính cuộc chiến ấy đã làm dang dở hạnh phúc của họ, một người nằm lại giữa Thành cổ Quảng Trị khốc liệt, một người bươn bả nuôi con trong những tháng ngày gian khó.

Rồi từ sự sẻ chia và thấu hiểu với một người lính khác cùng cảnh ngộ, hai con người ấy lại đến với nhau tự nhiên như hơi thở của tình yêu người lính. Và chính cuộc sống sau này đã bù đắp, mở ra cho họ một mái ấm bình yên, trọn vẹn sau bão đạn chiến tranh.

Bà Phan Thị Biển Khơi, sinh năm 1948 tại xã Đồng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình cũ (nay là xã Đông Trạch, tỉnh Quảng Trị mới), tuổi thơ sớm in dấu chiến tranh. Mới 14 tuổi, khi đang học cấp 2 ở trường làng (1962), cô bé Biển Khơi đã nhiều lần trốn học để làm giao liên cho bộ đội.

Bốn năm sau, năm 1966, chị trở thành một trong những nữ chiến sĩ đầu tiên của Quảng Bình được biên chế vào Mặt trận Đường 9 (B5) vừa mới thành lập. Sở Chỉ huy ban đầu đóng tại bản Khe Sung, xã Ngân Thủy, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình; từ năm 1969 đến 1971, chuyển vào miền Tây Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, giáp ranh với các xã Hướng Lập (Hướng Hóa), Lệ Thủy (Quảng Bình) và tỉnh Savannakhet (Lào).

lbc3.jpg -1
Ông Hoàng Hữu Trạch và bà Phan Thị Biển Khơi trong ngôi nhà của gia đình ở tổ dân phố 8, phường Đồng Thuận, tỉnh Quảng Trị.

Ở nơi khói súng chưa bao giờ dứt, đầu năm 1969, chị gặp Trung úy Lê Binh Chủng (sinh năm 1944, quê xã Quỳnh Mỹ, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An cũ). Giữa những buổi tập bắn, những đêm gác lạnh, hai người trẻ lặng lẽ chắt chiu thương mến. Tình yêu của họ như dòng suối len lỏi qua bom đạn, âm thầm mà bền bỉ. Hơn một năm giữ kín tình cảm, chưa kịp công khai đã phải chia xa.

Cuối năm 1969, chị Khơi bị thương nặng, lại mắc sốt rét rừng ác tính nên phải ra Bắc điều trị. Lo sợ hạnh phúc trôi qua, ngay khi trở lại đơn vị tháng 1/1970, chị mạnh dạn xin phép cấp trên để chị và anh Lê Binh Chủng được tổ chức lễ cưới.

Khi ấy, chiến tranh ngày càng khốc liệt, chiến trường từ Đường 9 – Nam Lào kéo dài xuống Đông Hà vào Thành cổ Quảng Trị, giao tranh liên miên; Mỹ và Quân đội Sài Gòn mỗi ngày đêm bắn phá, rải thảm huỷ diệt với hàng trăm nghìn tấn bom đạn từ Hạm đội 7 ngoài Biển Đông và từ trên không trút xuống.

Sức khoẻ của chị Khơi chưa kịp hồi phục nên cấp trên đề nghị cho chị xuất ngũ – một chủ trương thời chiến nhằm chuyển những chiến sĩ không đủ sức ra tuyến sau vừa trực tiếp sản xuất, góp phần làm ra lương thực phục vụ chiến trường, vừa làm hậu phương vững chắc cho những người lính xông trận.

Đám cưới nhỏ ở xã Đồng Trạch ngày ấy diễn ra đặc biệt: không sính lễ, không váy trắng; chỉ có những người lính và hàng xóm làm chứng nhân cho tình yêu của đôi trẻ – một tình yêu trọn vẹn bởi cùng nhịp đập hai trái tim. Sau đêm tân hôn ngắn ngủi, chàng trung úy trẻ lại khoác ba lô ra trận. Người con gái đang đượm hương tình yêu, cũng trong bộ quân phục giản dị, lặng lẽ tiễn chồng qua hết con đường làng ướt nhẹp dưới làn mưa xuân; chị cố kìm nước mắt, bước thật nhanh trở lại làng như sợ bắt gặp ánh nhìn ngoái lại của chồng.

Sau khi xuất ngũ trở về, chị được chính quyền địa phương bố trí vừa làm cán bộ xã đội vừa chỉ huy phát triển sản xuất nông nghiệp. Rồi chị nhận ra mình mang thai và hạnh phúc báo tin vui cho chồng. Trong lá thư gửi về, anh nhắn nhủ: “Nếu là con gái đặt tên Mỹ Bình, nếu là con trai đặt Quảng An – ghép hai quê hương”.

Tháng 10/1970, chị sinh bé trai Lê Quảng An, khi người cha vẫn đang chiến đấu ở Thành cổ Quảng Trị. Đầu năm 1972, anh được về phép, lần đầu ôm con và gặp lại vợ trong niềm vui khôn xiết. Song, người lính thời chiến chỉ kịp ở bên con một thoáng rồi lại ra chiến trường.

Trong bối cảnh chiến sự ngày càng khốc liệt, nhiều cán bộ, chiến sĩ tinh nhuệ được điều động vào các đơn vị nòng cốt tại Thành cổ Quảng Trị để đánh đẩy lùi lực lượng quân đội Sài Gòn, tạo sức nặng trên bàn đàm phán Paris 1973. Trung úy Lê Binh Chủng từ Mặt trận B5 được tăng cường cho Sư đoàn 325, tiếp tục hành trình ở tuyến lửa khốc liệt nhất.

lbc2.jpg -0
Những kỷ vật của liệt sĩ Lê Binh Chủng và liệt sĩ Lê Văn Huỳnh đang được trưng bày tại Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị – những chứng tích sống động của một thời khói lửa.

Bước vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến 81 ngày đêm mùa hè đỏ lửa 1972, anh cùng đồng đội vẫn kiên cường chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Sau Thành cổ, chiến tranh chưa dừng lại. Giống như bao người cha, người mẹ, người vợ ở hậu phương, chị Biển Khơi ngày ngày ngóng tin chồng, tin rằng anh vẫn đang cầm súng nơi tuyến lửa. Nhưng rồi, không lâu sau, tin dữ như sét đánh ngang tai: Trung úy Lê Binh Chủng đã hy sinh tại chiến trường Thành cổ Quảng Trị.

Từ đó, chị Biển Khơi trở nên ít nói hơn, nhưng trong ánh mắt vẫn toát lên một sức mạnh bền bỉ – sức mạnh của lòng căm thù giặc và của niềm tin nơi người chồng đã ngã xuống, rằng đất nước sẽ hòa bình, thống nhất, Nam – Bắc sẽ sum họp; những người cộng sản sẽ tiếp tục dựng xây, mang lại ấm no, bình yên cho nhân dân. Sau hai năm vừa làm cán bộ xã đội vừa tham gia hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, chị được Ban An ninh huyện Bố Trạch bố trí làm cán bộ Công an xã Đồng Trạch. Đến cuối năm 1975, chị được nghỉ theo chế độ mất sức lao động.

Giờ đây, trong ngôi nhà rộng rãi, khang trang ở tổ dân phố 8, phường Đồng Thuận, tỉnh Quảng Trị mới, tiếng cười nói tíu tít của con cháu vang lên ấm áp. Khác với những gì chúng tôi hình dung trước chuyến đi – định hỏi chuyện bà Biển Khơi sau ngày chồng hy sinh – khi bước vào nhà, chúng tôi ngạc nhiên, tưởng như nhầm địa chỉ. Người ra đón không phải một bà cụ mà là một người đàn ông tuổi ngoài 80, dáng chậm rãi, nụ cười hiền.

Khi nghe chúng tôi trình bày, ông nhẹ nhàng cho biết mình là chồng của bà Biển Khơi. Từ đây, câu chuyện về ba con người – về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, về những đau thương mất mát do chiến tranh gây ra, cũng như sự thiện lành, hữu duyên của cuộc sống – dần hiện ra như một bức tranh đủ gam màu sinh động.

Trong thời gian nghỉ do mất sức lao động, bà Biển Khơi gặp và quen ông Hoàng Hữu Trạch, khi ấy là cán bộ quân đội đang công tác tại Tỉnh đội Quảng Bình. Ông Trạch sinh năm 1942, quê ở tổ dân phố 8, phường Đồng Thuận, tỉnh Quảng Trị mới. Một bên là mẹ góa con côi, một bên “gà trống nuôi con”, nên họ dễ đồng cảm, sẻ chia, đỡ đần nhau những việc nặng nhọc và chăm sóc lũ trẻ. Rồi họ quyết định về chung một mái nhà qua một lễ cưới đơn sơ, lặng lẽ, với lời động viên của gia đình, bạn bè và đồng đội.

(Còn nữa)

Thanh Bình
.
.