70 năm “vườn ươm đặc biệt” những “hạt giống đỏ” miền Nam trên đất Bắc
Việc đưa hơn 3 vạn thiếu nhi, học sinh miền Nam ra Bắc và thành lập hệ thống các trường học sinh miền Nam trên đất Bắc từ 1954 đến 1975 là một chủ trương lớn, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không chỉ thể hiện tầm nhìn sáng suốt mà còn nói lên tình cảm cao quý của Bác Hồ, của Đảng, Nhà nước và nhân dân miền Bắc đối với con, em đồng bào chiến sĩ miền Nam thân yêu.
Cách đây đúng 70 năm, sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân pháp kết thúc bằng Hiệp định Geneva, lấy vĩ tuyến 17 với sông Bến Hải làm ranh giới tạm thời để hai bên chuyển quân và sau hai năm sẽ có Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Nhưng với tầm nhìn xa trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã dự cảm rằng công cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước có thể còn lâu dài và gian khổ. Vì vậy, cùng với việc chuyển bộ đội và cán bộ kháng chiến tập kết cần phải đưa một số lượng không nhỏ thiếu nhi, học sinh là con em CBCS ra Bắc để chăm sóc, đào tạo, sau này trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng lại miền Nam, tái thiết đất nước. Mặt khác, các CBCS cách mạng còn ở lại miền Nam cũng sẽ yên lòng chiến đấu khi biết rằng con em mình đang ở trong “vòng tay” của Bác Hồ và đồng bào miền Bắc, được chăm sóc chu đáo, được học hành bài bản.
Từ cuối năm 1954 đến đầu năm 1955, hàng chục ngàn thiếu nhi, học sinh từ Quảng Trị đến Cà Mau và vùng Tây Nguyên, bằng nhiều con đường khác nhau, trong đó hơn 20.000 học sinh đi bằng đường biển từ các cảng Cà Mau, Sài Gòn, Vũng Tàu và Quy Nhơn cập bến các cảng cửa Hội (Nghệ An), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Quý Cao (Thái Bình) và nhiều nơi khác. Riêng tại cảng Sầm Sơn, Thanh Hóa đã đón tiếp gần 2 ngàn thương bệnh binh, hơn 47 ngàn CBCS và 6 ngàn thiếu nhi, học sinh miền Nam.
Ngay từ lúc bước chân lên đất Bắc, bộ đội, cán bộ và thiếu nhi học sinh miền Nam đã vô cùng xúc động trước sự đón tiếp nồng nhiệt và ấm áp của đồng bào miền Bắc. Thời kỳ đầu học sinh miền Nam được phân về ở nhờ nhà dân tại các tỉnh: Nghệ An, Thanh Hóa, Thái Bình, Hưng Yên, Hà Đông, Sơn Tây. Dù điều kiện kinh tế nghèo khó trong hoàn cảnh thời chiến, song các em học sinh luôn được gia đình, đồng bào miền Bắc nuôi dưỡng, nhường cơm sẻ áo, chăm lo như con, em trong nhà.
Ngày 18/1/1955, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định thành lập các trường Học sinh miền Nam nội trú, một mô hình đào tạo đặc biệt với những chính sách ưu tiên đặc biệt cho con em miền Nam. Những giáo viên ưu tú còn rất trẻ được lựa chọn cùng với các cô, chú y tá, bảo mẫu, cấp dưỡng có tình yêu thương và tinh thần trách nhiệm cao, chấp nhận rời gia đình vào ăn ở sinh hoạt trong trường nội trú, thay mặt cha, mẹ nuôi dạy các cháu. Học sinh miền Nam được hưởng chế độ chu cấp đặc biệt, được ăn no mặc ấm và điều kiện học tập tốt nhất lúc bấy giờ.
Khi chiến tranh ở miền Nam bước vào giai đoạn ác liệt, từ năm 1964 đến 1975, hơn 10.000 thiếu nhi, học sinh miền Nam là con liệt sĩ và CBCS đang chiến đấu ở miền Nam được đưa ra miền Bắc, chủ yếu đi bộ vượt dãy Trường Sơn theo đường giao liên quân sự và vào học ở các trường học sinh miền Nam. Tổng số hơn 32.000 thiếu nhi, học sinh ra Bắc được nuôi dạy ở 28 trường học sinh miền Nam tại nhiều tỉnh, thành phố miền Bắc, đông nhất là ở các tỉnh, thành phố như: Hải Phòng, Hà Đông, Hà Nam, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc. Học sinh miền Nam ở Hải Phòng và Chương Mỹ, Hà Đông vô cùng vui mừng và xúc động khi được Bác Hồ về thăm vào năm 1959 và 1962. Bác đi kiểm tra khu vệ sinh và khu nhà ăn trước khi lên hội trường trong tiếng vỗ tay reo hò chào đón của các thầy, cô giáo và hàng ngàn học sinh miền Nam.
Các thế hệ học sinh miền Nam luôn ghi nhớ những lời dặn dò của Bác là phải đoàn kết, đoàn kết giữa học sinh các vùng miền, đoàn kết với thiếu nhi và đồng bào miền Bắc, phải luôn nỗ lực học tập, rèn luyện để trở thành người tốt, học đi đôi với hành. Vâng lời Bác, các thầy cô giáo đã đào tạo học sinh miền Nam toàn diện, trước hết là học làm người, rèn luyện nhân cách, đặc biệt là tính trung thực, lòng biết ơn, ý thức tập thể và sự dấn thân cho công việc chung.
Từ năm 1964, khi Mỹ đổ quân vào miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, hàng trăm học sinh miền Nam vừa tốt nghiệp cấp 3 đã lên đường vào Nam chiến đấu. Vài năm sau đó, hàng ngàn học sinh miền Nam tốt nghiệp đại học, nhất là các ngành y dược, sự phạm, thông tin liên lạc tiếp tục trở về miền Nam chiến đấu giải phóng quê hương. Rất nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ. Họ mãi mãi là những tấm gương cho thế hệ trẻ cả nước, đặc biệt là cho học sinh miền Nam noi theo. Những học sinh miền Nam ở lại miền Bắc hoặc tốt nghiệp đại học ở nước ngoài về tiếp tục vào Bộ đội, Công an và các ngành thiết yếu, tham gia chống chiến tranh phá hoại miền Bắc và xây dựng hậu phương miền Bắc vững mạnh để chi viện cho miền Nam.
Ngay từ những ngày tháng đầu khi miền Nam được giải phóng, đa số học sinh miền Nam đã trưởng thành trở về miền Nam, tham gia tiếp quản và xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, trở thành một đội ngũ cán bộ chủ chốt hoạt động trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị văn hóa xã hội, khoa học kỹ thuật, giáo dục và đào tạo. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986, các thế hệ học sinh miền Nam tiếp tục nỗ lực, tận tụy và sáng tạo trong nhiệm vụ của mình, đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước. Nhiều đồng chí trở thành nhà khoa học, nhà giáo, văn nghệ sĩ nổi tiếng, nhiều doanh nhân thành đạt, các tướng lĩnh trong Quân đội, Công an... Đặc biệt, nhiều đồng chí trở thành lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước và các bộ, ngành Trung ương và nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Việc đưa hơn 3 vạn thiếu nhi, học sinh miền Nam ra Bắc và thành lập hệ thống các trường học sinh miền Nam trên đất Bắc từ 1954 đến 1975 là một chủ trương lớn, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không chỉ thể hiện tầm nhìn sáng suốt mà còn nói lên tình cảm cao quý của Bác Hồ, của Đảng, Nhà nước và nhân dân miền Bắc đối với con, em đồng bào chiến sĩ miền Nam thân yêu. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng đánh giá: “Đây là vườn ươm đặc biệt, ươm những hạt giống quý báu vào bậc nhất mà Bác Hồ, Đảng, Nhà nước và nhân dân miền Bắc đã dành cho miền Nam trong những ngày gian khó”. Có thể khẳng định rằng cuộc dịch chuyển thiếu nhi, học sinh quy mô nhất lịch sử được đánh giá là thành công trên cả 3 phương diện: Rèn luyện con người, mô hình giáo dục và chiến lược đào tạo dài hạn.
Thiếu nhi, học sinh miền Nam ra Bắc đa số không có cha mẹ cùng đi hoặc là con liệt sĩ, xa gia đình từ lúc tuổi thơ với dặn dò ra Bắc gặp Bác Hồ nhớ vâng lời Bác để học tập rèn luyện nên người. Vì vậy, học sinh miền Nam có tình cảm rất đặc biệt với Bác Hồ trong suốt cuộc đời mình. Những lần Bác về thăm các trường học sinh miền Nam hoặc được gặp Bác trong Phủ Chủ tịch các cháu ào vào ôm Bác, như ôm một người ông hiền từ và vô cùng kính yêu, một tình cảm rất sâu nặng và thiêng liêng. Những lời dạy bảo của Bác Hồ cùng với lòng biết ơn vô hạn với Bác, Đảng và nhân dân miền Bắc là hành trang quý báu để mỗi học sinh miền Nam nỗ lực hết mình phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.