Tận dụng ưu thế xuất xứ CPTPP - Đòn bẩy mới cho tăng trưởng xuất khẩu
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động và chính sách thuế đối ứng từ một số thị trường lớn như Hoa Kỳ đang tác động mạnh đến dòng chảy thương mại, việc tận dụng hiệu quả ưu đãi từ Hiệp định CPTPP trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Là một FTA thế hệ mới, CPTPP không chỉ mở ra cánh cửa thị trường rộng lớn mà còn đòi hỏi doanh nghiệp (DN) Việt Nam phải chủ động đáp ứng quy tắc xuất xứ để nâng cao năng lực cạnh tranh và khai thác trọn vẹn lợi thế thuế quan.
Mức độ tận dụng ưu đãi thuế quan tăng mạnh
Sau 6 năm thực thi Hiệp định CPTPP, tỷ lệ cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) của Việt Nam đã tăng rõ rệt. Nếu năm 2019 – thời điểm Hiệp định bắt đầu có hiệu lực – kim ngạch hàng hóa được cấp C/O chỉ đạt khoảng 0,7 tỷ USD (tương đương 2%), thì đến năm 2024, con số này đã tăng lên gần 5 tỷ USD (khoảng 8,8%).
Đặc biệt, tại các thị trường mới có FTA với Việt Nam như Mexico, Canada, Peru, mức độ tận dụng ưu đãi thuế quan tăng rất mạnh.
Cụ thể, tỷ lệ cấp C/O sang Mexico tăng từ 7% năm 2019 lên 47% năm 2024; thị trường Canada tăng từ 8% lên 17–18%. Với một số mặt hàng thế mạnh, tỷ lệ hưởng ưu đãi còn cao hơn như thủy sản, da giày sang Mexico đạt 70–80%, hay thủy sản, hàng thủ công mỹ nghệ xuất sang Canada đạt 40–80%. Những con số này cho thấy DN Việt Nam ngày càng chủ động tận dụng quy tắc xuất xứ và ưu đãi thuế quan trong CPTPP, góp phần tăng năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu (XK).
Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), tỷ lệ hàng hóa Việt Nam sử dụng Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) mẫu CPTPP hiện thấp hơn so với các hiệp định như EVFTA hay UKVFTA. Nguyên nhân là nhiều nước thành viên CPTPP đồng thời cũng tham gia các FTA khác với Việt Nam, dẫn đến việc DN có thể lựa chọn sử dụng ưu đãi thuế quan từ nhiều hiệp định khác nhau.
Chẳng hạn, hàng xuất sang Australia có thể áp dụng theo CPTPP, AANZFTA hoặc RCEP; trong khi xuất sang Nhật Bản có thể chọn CPTPP, Hiệp định Việt Nam – Nhật Bản, ASEAN – Nhật Bản hoặc RCEP. Vì vậy, tỷ lệ sử dụng C/O mẫu CPTPP riêng lẻ chỉ chiếm khoảng 3–5%, nhưng tổng tỷ lệ hàng hóa Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế quan tại Nhật Bản thực tế lên tới khoảng 50% khi tính cả các FTA khác.
Những số liệu trên cho thấy sự chênh lệch về tỷ lệ cấp C/O ưu đãi giữa các thị trường CPTPP so với các FTA khác như EVFTA hay UKVFTA là điều dễ hiểu. Bởi với CPTPP, nhiều quốc gia thành viên đồng thời tham gia các FTA khác với Việt Nam, khiến một thị trường có thể áp dụng nhiều hiệp định ưu đãi thuế quan. Do đó, “tỷ lệ sử dụng C/O mẫu CPTPP được chia sẻ giữa các FTA, DN đang linh hoạt lựa chọn FTA có lợi nhất cho từng thị trường và mặt hàng”, bà Trịnh Thị Thu Hiền, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cho hay.
Cơ hội để doanh nghiệp rà soát lại toàn bộ chuỗi cung ứng
Chia sẻ tại tọa đàm “Tận dụng lợi thế xuất xứ trong CPTPP: Đòn bẩy tăng trưởng xuất khẩu trong bối cảnh chính sách thuế đối ứng” diễn ra ngày 5/11, bà Trần Thị Thanh Mỹ, Phó Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Sydney, Trưởng Thương vụ Việt Nam tại Australia cho biết, kể từ khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực, DN Việt Nam và Australia đã tận dụng hiệu quả các ưu đãi thuế quan, đưa kim ngạch thương mại song phương tăng mạnh.
Nếu năm 2012 chỉ đạt 5 tỷ USD, thì đến năm 2019 đã tăng lên 8 tỷ USD và đạt kỷ lục 15,7 tỷ USD vào năm 2022. Riêng XK của Việt Nam sang Australia tăng từ 3,5 tỷ USD năm 2019 lên 6,5 tỷ USD năm 2024, tương đương mức tăng hơn 80% – minh chứng rõ nét cho việc DN Việt Nam tận dụng tốt lợi thế thuế quan từ CPTPP. Nhiều nhóm hàng nông sản như hạt điều, cà phê, hạt tiêu đang khẳng định vị thế tại Australia; trong đó hạt điều Việt Nam chiếm tới 90% lượng nhập khẩu của nước này. Thương vụ Việt Nam tại Australia kỳ vọng hàng hóa và DN Việt Nam sẽ ngày càng hiện diện mạnh mẽ hơn tại thị trường tiềm năng này.
Về chính sách thuế quan của các nước, bà Trần Thị Thanh Mỹ cho rằng, thời gian gần đây, chính sách thương mại hay chính sách thuế quan của các nước tương đối bất ổn. Sự bất ổn này sẽ gây ảnh hưởng đến không chỉ tình hình thương mại nói chung mà còn cả thương mại giữa Australia với các nước, trong đó có Việt Nam. Mức thuế quan cao chắc chắn sẽ cản trở đến dòng chảy thương mại của tất cả các nước trên thế giới, chứ không chỉ riêng đối với thị trường cụ thể nào. Đây cũng là một đánh giá chung chứ không phải là đánh giá của riêng cơ quan thương vụ. Tuy nhiên, trong nguy có cơ.
Cũng theo bà Trần Thị Thanh Mỹ, cơ hội ở đây là dịp để DN Việt Nam tái cấu trúc, tái định hình lại thị trường và mặt hàng XK, đặc biệt sang thị trường Australia. Tuy vậy, về mặt ngắn hạn, doanh thu xuất khẩu của DN có thể bị giảm, bởi vì DN Việt Nam chưa kịp thích ứng hay với những thay đổi liên quan về mặt thuế quan.
Ở chiều ngược lại, đại diện DN nhìn nhận đây là một cơ hội để rà soát lại toàn bộ chuỗi cung ứng và tối ưu các chi phí nhằm tận dụng được các hiệp định thương mại tự do như CPTPP. Việc tận dụng tốt các quy tắc xuất xứ trong hiệp định này giúp DN mở rộng ra các thị trường thành viên khác và giảm được sự phụ thuộc vào một thị trường duy nhất và duy trì tăng trưởng được ổn định.
Mặt khác, DN cũng đang có những bước chuẩn bị dài hạn để xây dựng chuỗi cung ứng nguyên liệu ổn định trong nước và tăng cường các vùng nuôi đạt chứng nhận quốc tế như ASC. Đồng thời, đa dạng hóa thị trường không chỉ đối với Hoa Kỳ mà còn là Nhật Bản, Canada hay Australia trong khối CPTPP nói chung.
Bà Trần Thị Thanh Mỹ nhấn mạnh, DN cần chủ động nắm vững CPTPP, nghiên cứu nhu cầu từng thị trường, tối ưu chuỗi cung ứng, tăng tỷ lệ nội địa hóa hoặc sử dụng nguyên liệu từ các nước CPTPP, nâng cao năng lực pháp lý và tận dụng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Đồng thời, phối hợp cùng DN cùng ngành để xây dựng nguồn lực tổng hợp, từ đó cùng thâm nhập thị trường.

CPTPP giúp hàng của Việt Nam cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài
CPTPP tạo sự đổi mới và bứt phá với doanh nghiệp Việt