Đau đáu Cuba
Đó không chỉ là một nhan đề cảm tính. Đó là trạng thái rất thật của một câu hỏi kéo dài quá lâu, quá dai dẳng, đến mức chính sự dai dẳng ấy trở thành một thứ bất thường đạo lý của thế giới hôm nay: vì sao năm 2025 rồi mà vẫn còn một quốc gia bị bóp nghẹt bằng cấm vận toàn diện?
Sáng 28/10, tại Hà Nội, Đại sứ Cuba tại Việt Nam Rogelio Polanco Fuentes gặp báo chí Việt Nam và công bố điều mà những ai theo dõi vấn đề Cuba đều đã thuộc lòng, nhưng mỗi lần nghe nhắc lại vẫn thấy nhói: Cuba tiếp tục đưa dự thảo nghị quyết lên Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ), yêu cầu Hoa Kỳ chấm dứt lệnh phong tỏa kinh tế, thương mại và tài chính áp đặt lên Cuba.
Văn kiện năm nay mang tên “Sự cần thiết phải chấm dứt lệnh phong tỏa kinh tế, thương mại và tài chính do Hợp chúng quốc Hoa Kỳ áp đặt đối với Cuba”, còn được gọi là dự thảo Nghị quyết A/80/L.6. Đại hội đồng LHQ dự kiến thảo luận và bỏ phiếu trong hai ngày 28 và 29/10. Đây đã là lần thứ 34 Cuba đệ trình nghị quyết này lên Đại hội đồng, và cũng là lần thứ 34 thế giới phải nghe lại một thông điệp về một vấn đề đáng nhẽ đã phải được giải quyết từ rất lâu.
Tại sao vấn đề Cuba luôn gây chấn động dư luận mỗi lần quay lại LHQ? Bởi vì đây không còn là tranh luận ý thức hệ kiểu Chiến tranh Lạnh. Đây là câu hỏi rất đời thường, rất con người: một bệnh nhân suy thận có được chạy thận hay không. Một đứa trẻ đi học có sách giáo khoa hay không. Một ca mổ ung thư có được thực hiện đúng thời điểm hay không.
Trong báo cáo gửi LHQ, Cuba mô tả tác động của lệnh phong tỏa bằng những con số mà họ khẳng định là đo đếm được trong thực tế. Chỉ riêng giai đoạn từ 1/3/2024 đến 28/2/2025, Cuba ước tính tổn thất kinh tế do phong tỏa gây ra là khoảng 7.556 tỷ USD. Tức bình quân hơn 600 triệu USD mỗi tháng, hơn 20 triệu USD mỗi ngày và gần 1 triệu USD mỗi giờ. Cuba gọi đây là hệ thống biện pháp cưỡng bức đơn phương toàn diện, kéo dài nhất và khắc nghiệt nhất từng áp đặt lên một quốc gia trong lịch sử hiện đại.
La Habana nhấn mạnh rằng, phong tỏa không chỉ kìm hãm sự phát triển kinh tế mà còn xâm hại có hệ thống các quyền cơ bản của người dân Cuba, bao gồm quyền được phát triển, quyền được chăm sóc y tế và quyền tự quyết định mô hình phát triển. Những con số đó sẽ chỉ là ngôn ngữ thống kê nếu ta không đặt chúng vào thực tế đời sống thường nhật ở Cuba. Và thực tế ấy khắc nghiệt đến mức không thể coi là “tác dụng phụ” của một công cụ chính trị.
Nhưng có một tiếng nói mà Cuba đặc biệt trân trọng và Đại sứ Rogelio Polanco Fuentes đã nhắc công khai ở Hà Nội: tiếng nói của Việt Nam. Lập trường của Việt Nam về vấn đề Cuba chưa từng mập mờ. Việt Nam luôn khẳng định ủng hộ mạnh mẽ những nỗ lực tiến tới bình thường hóa quan hệ Cuba - Hoa Kỳ; kêu gọi Hoa Kỳ gỡ bỏ các biện pháp phong tỏa đối với Cuba theo tinh thần các nghị quyết liên quan của Đại hội đồng LHQ; đồng thời nhấn mạnh rằng việc dỡ bỏ cấm vận không chỉ là quyền lợi chính đáng của nhân dân Cuba, mà còn là yếu tố góp phần cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực châu Mỹ và trên thế giới.
Không chỉ dừng ở thông điệp chính trị, Việt Nam đã chính thức gửi ý kiến lên Tổng Thư ký LHQ trong quá trình chuẩn bị báo cáo trình Đại hội đồng, thể hiện quan điểm hết sức rõ ràng. Việt Nam bày tỏ “quan ngại sâu sắc” rằng các biện pháp bao vây, cấm vận đã cản trở nghiêm trọng quá trình phát triển kinh tế – xã hội của Cuba và làm trầm trọng thêm các khó khăn nhân đạo mà người dân Cuba phải đối mặt.
Việt Nam cũng nêu rõ lo ngại về việc Cuba tiếp tục bị đưa vào danh sách “quốc gia tài trợ khủng bố” của Hoa Kỳ - một danh sách mà Việt Nam cho rằng làm trầm trọng thêm tác động của phong tỏa, bóp nghẹt cả các kênh hợp tác nhân đạo tối thiểu và cản trở Cuba tham gia bình thường vào các chương trình hợp tác kinh tế, tài chính, phát triển.
Điều quan trọng là: Việt Nam nói những điều này không phải từ xa. Việt Nam hiểu vì Việt Nam đã từng trải qua. Chúng ta từng sống trong trừng phạt, từng bị bao vây cấm vận, từng phải đi lên trong điều kiện bị hạn chế giao thương, tài chính, công nghệ.
Trải nghiệm đó tạo ra hai thứ: sự đồng cảm và ý thức trách nhiệm. Chính vì thế, Việt Nam khẳng định “ủng hộ không lay chuyển” đối với các nghị quyết của Đại hội đồng LHQ yêu cầu Hoa Kỳ dỡ bỏ hoàn toàn chính sách phong tỏa chống Cuba; đồng thời kêu gọi Hoa Kỳ đưa Cuba ra khỏi danh sách tài trợ khủng bố và thúc đẩy đối thoại trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng chủ quyền và không can thiệp nội bộ. Điều đó còn được cụ thể hóa bằng hành động mang tính vật chất.
Theo nội dung Việt Nam báo cáo LHQ, chúng ta đã tăng cường hỗ trợ thiết thực giúp Cuba bảo đảm an ninh lương thực, thông qua các dự án hợp tác song phương về lúa gạo, ngô, nuôi trồng thủy sản. Riêng trong năm 2024, Việt Nam đã viện trợ hơn 10.000 tấn gạo cho Cuba, cùng với trang thiết bị cứu hộ cứu nạn và máy tính, nhằm giúp Cuba ứng phó với giai đoạn mà chính Cuba gọi là “khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng nhất trong nhiều thập niên”.
Song song với kênh nhà nước - nhà nước là kênh nhân dân - nhân dân. Các tổ chức chính trị – xã hội tại Việt Nam, trong đó có Hội Chữ thập Đỏ Việt Nam, đã phát động chương trình vận động ủng hộ nhân dân Cuba với chủ đề “65 năm nghĩa tình Việt Nam – Cuba”, nằm trong khuôn khổ Năm Hữu nghị Việt Nam – Cuba 2025, nhân kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1960-2025).
Đây không chỉ là hoạt động tượng trưng hay nghi lễ ngoại giao. Đó là lời kêu gọi trực tiếp: người dân Việt Nam cùng san sẻ với người dân Cuba trong những cần thiết nhất - y tế, lương thực, trang thiết bị dân sinh.
Đại sứ Rogelio Polanco Fuentes nhấn mạnh rằng Việt Nam đã thể hiện tình đoàn kết với Cuba không chỉ ở sự hỗ trợ vật chất, mà còn ở sự ủng hộ chính trị và nhân đạo, công khai, bền bỉ và nhất quán, tại tất cả các diễn đàn quốc tế.
Cách Cuba cảm ơn Việt Nam - cảm ơn Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam - không đơn thuần là xã giao. Nó phản ánh một điều hiếm hoi còn giữ được giá trị trong thế giới đầy tính toán này: sự thủy chung chính trị. Cuba không bao giờ quên rằng trong những năm tháng khó khăn nhất, Việt Nam đã có mặt. Còn Việt Nam cũng không quên rằng trong những năm tháng khó khăn nhất của mình, Cuba đã ở bên cạnh.
Đặt tất cả những điều đó lại với nhau, câu chuyện Cuba hôm nay không chỉ còn là câu chuyện của Cuba. Nó trở thành phép thử cho trật tự quốc tế mà tất cả các quốc gia đang nói tới mỗi ngày: một trật tự “dựa trên luật lệ”. Nếu luật lệ thực sự là nền tảng, thì không thể có chuyện một quốc gia đơn phương áp đặt các biện pháp có hiệu lực ngoài lãnh thổ để cô lập nền kinh tế của một nước khác suốt hàng chục năm, bất chấp ý chí của cộng đồng quốc tế.
Nếu chủ quyền quốc gia thực sự là nguyên tắc, thì không thể chấp nhận một cơ chế phong tỏa khiến trẻ em Cuba phải đợi từng chiếc máy trợ thính đi vòng qua nước thứ ba, và bệnh nhân ung thư phải chờ ca mổ vốn lẽ ra không được phép trì hoãn. Nếu nhân đạo vẫn còn ý nghĩa, thì không thể coi việc trừng phạt tập thể cả một dân tộc như một công cụ chính trị hợp lệ.
“Đau đáu Cuba”, nói đến cùng, là sự day dứt trước nghịch lý này. Chúng ta đã đi rất xa khỏi thời Chiến tranh Lạnh, đã nói rất nhiều về hòa bình, phát triển bền vững, quyền con người, nhân phẩm con người. Nhưng đến tận hôm nay, vẫn có một đất nước ngay giữa Caribe bị ràng buộc thương mại, tài chính và công nghệ đến mức nền kinh tế phải trả phí bảo hiểm cao hơn chỉ để mua nhiên liệu vòng vèo qua nước thứ ba; đến mức một danh sách chờ phẫu thuật kéo dài hàng chục nghìn người; đến mức một lớp học buộc phải cắt giảm in sách giáo khoa vì không mua nổi giấy in.
Câu hỏi cuối cùng không còn thuộc về Cuba. Nó thuộc về tất cả các nền văn minh vẫn tự nhận là có lương tri: chúng ta muốn sống trong một thế giới mà trừng phạt tập thể một dân tộc được coi là bình thường, hay trong một thế giới trong đó điều đó bị coi là không thể chấp nhận?
Từ La Habana, câu trả lời đã quá rõ. Từ Hà Nội, câu trả lời không chỉ rõ, mà còn có trách nhiệm.

Việt Nam luôn đồng hành và hỗ trợ Cuba trong mọi khả năng
Những điều “không phải ai cũng biết” ở đất nước Cuba