Sống giữa vùng rốn gió Lào
Người dân Quảng Trị gọi gió Lào bằng nhiều cái tên: “gió phơn Tây Nam”, “giặc trời”, “gió hun”, “gió độc”... Đó là luồng không khí khô nóng tràn từ phía Tây Trường Sơn, vượt rừng, xuyên dãy biên giới để trút xuống dải đồng bằng miền Trung, bắt đầu từ Quảng Trị, rồi kéo dài ra một số tỉnh như Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An... Nhưng chỉ ở Quảng Trị, gió Lào mới thật sự là… “đặc sản” hành hạ con người.
Ràn rạt gió…
Thành phố Đông Hà vào mùa gió Lào như khoác lên mình một chiếc áo bỏng rát. Giữa cơn cuồng phong với cát bụi lật tung theo từng đợt, quất xuống, khiến người đi đường, người thợ xây dựng công trình phải bịt kín mặt. Cây cối trong thành phố cũng không thể yên bình. Nhiều nhà cao tầng hư hỏng phần kính mặt tiền, để lộ khoảng trống phía sau lớp tường bê tông phủ đầy bụi.

Trong câu chuyện với tôi, ông Trương Hữu Bốn, một nông dân ở thôn Cam Vũ, xã Cam Tuyền, huyện Cam Lộ cười khổ: “Chỉ cần cây ngô non mới ló khỏi mặt đất tự dưng oằn xuống, lá cuộn lại, thì biết đó là ngày đầu tiên của mùa gió Lào. Chừng ni trở đi, làm gì cũng phải tính đến gió: phơi lúa thì canh giờ, chăn bò thì canh hướng. Người già, trẻ con cũng bắt đầu sốt cao bất chợt vì khô nóng, sặc khói gió”, ông nói.
Gió đến, kéo theo khói, một thứ bụi mịn mù mịt lẫn hơi nóng hầm hập từ mặt đất bốc lên. Trên các tuyến đường từ Lao Bảo về Đông Hà, từ cầu treo Đakrông lên Tà Rụt, những chiếc xe tải chở đầy than, thạch cao, xi măng, gỗ keo… trườn qua lớp gió nóng. Tài xế quấn khăn ướt che mặt, mở toang cửa xe, ngồi lái mà mồ hôi vẫn đổ thành dòng.
Ở A Bung, xã thuộc huyện vùng cao Đakrông, những căn nhà sàn của đồng bào Pa Cô vẫn giữ lối dựng bằng gỗ trắc, vách tre nứa được lót thêm lớp vải bạt cũ để giảm nhiệt. Cửa chính không bao giờ mở thẳng hướng Tây Nam, nơi gió Lào thường xuyên ập tới. “Gió ni hun dữ lắm, thốc vô nhà làm trẻ con khó thở, người lớn nhức đầu, người già thì chóng mặt”, bà Hồ Thị Sim, 73 tuổi ở xã này nói, giọng khản đặc: “Nhà tui phải lấy bao tải cũ, nhúng nước, treo kín các khe hở. Đêm mô cũng thức dậy một, hai lần để tạt nước cho khỏi khô quá”.
Nguy cơ cháy và đói nghèo
Không chỉ mang theo nóng bức, “giặc trời” còn mang theo mối hiểm họa âm ỉ. Với đặc tính khô và thốc mạnh, gió Lào là chất xúc tác khiến mọi đám cháy nhỏ có thể biến thành thảm họa. Ở vùng khô hạn Quảng Trị, chỉ cần một tàn thuốc lá vứt xuống đám cỏ khô ven đường, hoặc một bếp lửa không dập kỹ ở rẫy, là có thể bùng lên một trận cháy dữ dội.
Giữa tháng 5 vừa rồi, rẫy keo của gia đình ông Hồ Văn Thanh ở xã Hướng Sơn, huyện vùng cao Hướng Hóa bị cháy chỉ trong vòng hai giờ đồng hồ. “Tui vô rừng lượm củi, vợ ở nhà nấu ăn. Có thể là gió thổi tàn tro từ bếp ra, bén vào đống rác ngoài vườn. Lúc phát hiện thì lửa đã cháy lên tới ngọn cây, không còn làm chi được nữa cả”, ông Thanh kể, ánh mắt đỏ hoe khi hơn 2 ha rừng trồng, là vốn liếng dành dụm suốt 5 năm bỗng tan thành tro bụi. Không riêng gì rẫy nhà dân, mà cả những cánh rừng tự nhiên tại Hướng Hóa cũng từng nhiều lần chìm trong biển lửa. Năm nào vào mùa gió Lào, các lực lượng kiểm lâm, dân quân, bộ đội biên phòng cũng phải túc trực 24/24 tại các điểm nóng. Chỉ cần chậm một chút, gió sẽ cướp lửa đi xa hàng cây số.

“Cháy ban đêm là đáng sợ nhất. Mắt không thấy rõ, gió thổi ràn rạt, lửa phả ra từng luồng như có ai cầm đuốc huơ trước mặt. Có đêm, tui với cả tổ tuần tra phải nằm rạp xuống đất mà bò, tay cầm can nước nhỏ dập từng đốm lửa một”, một cán bộ kiểm lâm tại xã Hướng Sơn - Hướng Hóa nhớ lại một mùa hè ám ảnh. Không ít người dân vùng cao kể rằng, trẻ con ở bản có thể nhận biết hướng cháy nhờ… màu gió. Khi gió chuyển thành luồng xám đỏ, khét lẹt, thì tức là lửa đang gần lắm. Những đứa trẻ được dạy từ nhỏ cách chạy ngược chiều gió, trùm vải ướt lên người và gọi nhau bằng tiếng hú, một dạng báo động dân dã mà rất hiệu quả trong rừng sâu.
Ở vùng rốn gió Lào, cái nghèo không chỉ đến từ thiếu thốn tiền bạc, mà đến từ chính sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Mỗi mùa gió về, không ít cánh đồng nứt toác như lưng rồng, ao hồ cạn nước, cây trồng héo rũ. Người nghèo thêm một mùa đói, và cái nghèo như sợi dây cứ quấn chặt lấy đời sống bao thế hệ. “Tui trồng sắn, năm mô gió dữ là chết trắng. Ngô thì trổ bông không đậu, lúa vừa làm đòng thì khô cả ruộng”, chị Lê Thị Thắm, một phụ nữ đơn thân ở xã Lìa - Hướng Hóa, lật giở cuốn sổ ghi chép mùa vụ. Trong đó, có những dòng mực đỏ ghi chú rõ ràng: “Năm 2022: rẫy hạn, lúa, bắp bị cháy khô. Năm 2024: lửa thiêu rụi hơn 7 sào ruộng sắn”.
Không chỉ mùa màng, mà sức khỏe con người cũng là thứ bị bào mòn. “Con nít ở đây viêm họng quanh năm. Có đứa sốt cả tuần vì khô nóng quá. Người lớn thì cao huyết áp, đau đầu, mất ngủ”, chị Thắm thở dài. Trong ngôi nhà nhỏ, chiếc quạt bàn đã cũ kỹ vẫn chạy cọc cạch, như muốn đuổi đi cái nghèo đang len lỏi trong từng kẽ ngói.
Gió Lào làm tăng chi phí sinh hoạt, giảm năng suất lao động, khiến cả những người muốn vươn lên cũng gặp muôn vàn gian khó. “Đi làm thuê ở Đông Hà thì xa, về nhà không có đất trồng, làm gì cũng khổ vì gió hun. Có bữa chạy xe máy mà gió táp vô mặt như ai tát, mắt cay xè, muốn khóc luôn”, anh Trần Văn Hậu, một lao động tự do ở xã Hướng Hiệp - Đakrông, kể.
Gió còn thổi bay cả giấc mơ học hành. Không ít em nhỏ bỏ học giữa chừng vì cha mẹ không lo nổi chi phí, hoặc vì trường quá xa, đi về giữa trưa nắng 45 độ là… không thể. “Có lần em Hồ Văn Tuấn ngất ngay giữa đường vì đi học về gặp gió Lào thốc lên mặt”, thầy giáo Nguyễn Văn Nghị, giáo viên cắm bản ở Đakrông, kể: “May người dân phát hiện kịp thời, đưa đến viện truyền nước. Cháu sau đó phải nghỉ học cả tuần”.
Cái nghèo không chỉ đến từ thiếu đất, thiếu vốn, mà đến từ… gió. Gió như một cái bóng dài, phủ lên mái nhà, lên rẫy nương, len vào cả bữa cơm đạm bạc. Và trong cái bóng đó, người dân vùng gió vẫn gắng gượng tồn tại, bằng cách tằn tiện, chịu đựng, và lặng lẽ cõng nhau vượt qua.
Nhen nhóm hy vọng
Giữa cái nắng quắt queo và những luồng gió khô khốc như cát xát vào da thịt, vẫn có những con người chọn ở lại, bám đất, dựng làng, giữ rừng. Ông Hồ Văn Păn, xã A Vao – Đakrông tâm sự: “Tui sinh ra trong gió Lào, lớn lên trong gió Lào, và sống đến già cũng trong gió. Gió có dữ cách mấy thì mình cũng không bỏ làng. Rừng có cháy, mình trồng lại. Đất có khô, mình đào giếng. Ở đây, bỏ rẫy là bỏ gốc”.

Người như ông Păn không ít. Ở A Vao, bà Hồ Thị Nậy, 64 tuổi, vẫn ngày ngày lội bộ hơn 3 cây số để ra ruộng rẫy. Chồng mất sớm, con cái đi làm ăn xa, bà Nậy ở lại trông coi căn nhà nhỏ và mảnh đất cha ông để lại. “Có bữa đang tưới, gió Lào thốc lên khô hết cả luống sắn. Vậy mà hôm sau tui vẫn ra, vẫn tưới. Ở cái xứ ni, mình không lì thì chịu không nổi”, bà chia sẻ.
Với thế hệ trẻ, có người chọn rời đi nhưng cũng có người trở về. Như chị Hồ Thị Bích, một kỹ sư môi trường từng làm ở Đà Nẵng, sau 10 năm đi xa đã xin chuyển công tác về Đakrông. “Không phải ai cũng chọn về quê. Nhưng em thấy nơi ni cần người hiểu đất, hiểu người, để làm được điều gì đó. Em về để dạy mấy đứa nhỏ ở bản không sợ gió Lào nữa, mà học cách thích nghi, sống với nó”, chị nói.
Có những thanh niên trẻ đang khởi nghiệp từ… rẫy khô. Họ khoan giếng, trồng giống keo ngắn ngày, làm hệ thống tưới nhỏ giọt. “Mình không thể đổi gió, nhưng mình có thể đổi cách sống”, anh Hồ Văn Lộc, 27 tuổi, chủ một mô hình trồng chuối kết hợp nuôi dê tại xã A Ngo - Đakrông, bộc bạch.
Gió Lào, với tất cả sự khắc nghiệt, tưởng chừng chỉ gieo rắc nỗi sợ và thiệt hại. Nhưng trong cái gắt gỏng của nắng gió, vẫn có những mạch nước ngầm của hy vọng âm thầm chảy. Những năm gần đây, chính quyền địa phương và cộng đồng đã bắt đầu nghĩ khác, làm khác để sống được trong gió thay vì cam chịu gió. Tại Đakrông, mô hình trồng rừng phòng hộ kết hợp cây bản địa chịu hạn đã được triển khai ở nhiều xã. Những đồi keo ngắn ngày đang dần nhường chỗ cho rừng lim, rừng sồi, rừng chò… với mục tiêu không chỉ giữ đất, giữ nước, mà còn tạo vành đai chắn gió. “Có cây là có nước, có bóng mát, có chỗ để gió bớt hung dữ”, ông Thái Ngọc Châu, Chủ tịch UBND huyện Đakrông chia sẻ.
Ngành nông nghiệp các huyện Cam Lộ, Gio Linh cũng đã đưa vào sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt tiết kiệm nước, giống cây trồng mới như đậu xanh chịu hạn, chuối kiểng, cỏ voi cho bò… Ở nơi nước giếng cũng cạn đáy vào mùa hè, việc một cây sống sót là cả một thành tựu.
Quảng Trị vẫn sẽ còn gió, đó là điều không ai phủ nhận. Nhưng trong gió, người dân nơi đây đang học cách sống cùng, sống vững vàng. Gió là phép thử cho ý chí, cho tinh thần chịu thương chịu khó và cho niềm tin rằng: ở đâu có con người, ở đó có hy vọng.