Nhớ Nguyễn Minh Châu
Số phận nghiệt ngã thường dành cho những người chân thật, đa cảm và cả nghĩ. Đó là nhận xét mang đậm chất chủ quan của tôi, mỗi khi nhớ tới nhà văn Nguyễn Minh Châu.
1. Nguyễn Minh Châu là một trong số không nhiều nhà văn Việt Nam suốt đời lúc nào cũng đau đáu nghĩ tới việc viết. Dường như mọi sự bận tâm đối với ông đều có liên quan đến nghề, và dường như chính nghề đã tạo nên tính cách Nguyễn Minh Châu.

Chỉ cần lần giở lại thời gian và những trang sáng tác của ông, chúng ta không thể không nhắc đến hai cuốn tiểu thuyết quan trọng, đó là “Cửa sông” và “Dấu chân người lính”. Có thể nói, hai tác phẩm này cùng với “Lửa từ những ngôi nhà” và hàng loạt truyện ngắn bút ký của ông như: “Mẹ con chị Hằng”, “Mảnh trăng cuối rừng”... là những đóng góp không nhỏ đối với thành tựu văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ.
Ngọn gió đổi mới như một luồng sinh khí mới thức tỉnh toàn bộ đời sống xã hội Việt Nam những năm sau đại hội VI của Đảng. Nhà văn Nguyễn Minh Châu với tâm hồn nghệ sĩ vừa nhạy cảm vừa nồng nhiệt đối với những chuyển biến của đất nước đã cho đời những tác phẩm xuất sắc như: “Bức tranh”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Hai con nhóc”, “Dấu vết nghề nghiệp”, “Một lần đối chứng”, “Chiếc thuyền ngoài xa”, “Khách ở quê ra”, “Phiên chợ Giát”, “Cỏ lau”, “Mùa trái cóc ở miền Nam”, “Sống mãi với cây xanh”, “Sắm vai”... Đặc biệt những bài tiểu luận, những ghi chép về nghề của ông là những di sản vô cùng quý báu đối với các thế hệ các nhà văn sau này.
2. Ngày ấy, tôi may mắn được Tổng cục Chính trị điều về công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Những ngày mới về nhận việc, được ngồi họp chung, bàn chung công việc với các nhà văn đàn anh như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Lê Lựu, Thu Bồn, Ngô Thảo... đối với tôi là cả một sự kỳ lạ của cuộc đời lính tráng.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi lần đầu tiên bước vào căn phòng khá rộng ở đầu hồi dãy nhà cấp bốn phía sau tòa soạn, nơi nhà văn Lê Lựu, Trưởng ban Văn đang ở vì sự tối tăm và hôi xì mùi nước ống điếu thuốc lào và mùi ẩm mốc… Thế mà suốt ngày “căn hầm” cứ xoành xoạch kẻ ra người vào tấp nập.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng hay tới đây, nhưng ông thường nhằm vào lúc ít người. Tôi nhớ mãi cái buổi chiều u ám, tôi đang được Lê Lựu đãi món bún lá với mắm tôm và đậu phụ rán cùng món kể lại cốt truyện và ý tưởng cái truyện ngắn mới nhất của Nguyễn Minh Châu. Câu chuyện về vợ một anh chàng ngư phủ rất hay bị thằng chồng vũ phu đánh đập, hành hạ. Lạ lùng thay là chị ta không những không phản ứng mà còn xin hắn, có đánh thì để lên đến bờ rồi hãy đánh nữa kia. Có phải chị ta yêu hắn không? Không. Nhưng mà không thể không sống với hắn.
Người ta khuyên chị nên bỏ quách hắn đi, ngay cả ông chánh án tòa án nhân dân huyện cũng không kìm chế được, đã nói với chị ta rằng: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn”, và anh đã khuyên chị ta bỏ chồng, mặc dù vẫn nhớ chức năng của mình là phải hòa giải. Nhưng mà chị ta thì vẫn một mực chắp tay vái lạy các người rằng chị đã nghĩ kỹ rồi. Cuối cùng người ta cũng khám phá ra. Chị ta chịu đựng chỉ là để tồn tại cái gia đình cùng với những đứa con. Một cái gia đình đi biển, sống bằng nghề biển mà không có hắn, không có đàn ông thì... Nói đến đây Lê Lựu ngắc giọng lại, nhìn ra ngoài.
Có tiếng xe đạp lạch xạch trước cửa “hang”. Lê Lựu nhận ra tiếng lạch xạch quen thuộc ấy. Anh bảo tôi: “Bác Châu đấy”, rồi vội lấy bát đũa “mời ông anh”. Lê Lựu và tôi rối rít mời Nguyễn Minh Châu cùng ngồi xuống chiếu nhưng ông vẫn ngồi trên chiếc ghế tựa tường, lấy thuốc ra hút rồi nói với Lê Lựu:
- Ông cho mình lấy lại cái truyện ngắn mình gửi hôm nọ có được không?
- Sao lại lấy lại? Em đưa đánh máy rồi mà.
- Nhưng mình nghĩ lại rồi. Không nên in lúc này Lựu ạ.
Lê Lựu nhìn ông, có vẻ không hiểu.
Ông vẫn một mực:
- Để khi nào nó nguôi nguôi đi cái đã.
- Em vừa kể cho thằng Đỉnh nó nghe, Lê Lựu nói. Em nói thật nhá, bác đừng sợ, cái truyện ngắn này hay thế, đẹp thế thì có gì mà sợ? Cứ để đấy, em cho “đi” ngay số này thôi mà.
- Ông lấy ngay về hộ tôi! - Nguyễn Minh Châu chuyển thái độ, những ngón tay run run dụi tàn thuốc vào cái gạt tàn đầy ự mẩu, với vẻ mặt căng thẳng. Tôi thấy ông chợt vươn ngửa người, ưỡn ra phía sau thành ghế rồi trở về tư thế ban đầu, chuyển trở lại bằng cái giọng tâm sự:
- Mình có đưa cho Thu đọc, nó bảo, anh mà cho in lúc này rất không có lợi, rất dễ bị suy diễn. Mình thấy Thu nó nói đúng đấy.
Ông chơi rất thân với nhà thơ Nguyễn Trung Thu, công tác ở Ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương. Hai người còn là láng giềng của nhau, nên hễ cứ viết xong cái gì, ông cũng đem sang nhà cho bạn “duyệt” trước.
Lê Lựu buông bát đũa, đứng dậy:
- Anh để đấy em, thằng nào đánh em chịu.
Nguyễn Minh Châu cười:
- Ông chịu thế nào được?
Lê Lựu khẳng định:
- Được! Phải có cách chứ. Cứ thật thà như bác với cái ông Thu có mà ...
Nói rồi anh lấy giấy bút viết. Tôi tò mò ghé xem. Hóa ra Lê Lựu viết một lá thư cho… Nguyễn Minh Châu với nội dung rất ngắn gọn rằng: “Hôm nọ, lúc chờ xe đi Đại Lải, anh ghé phòng em chơi, mải chuyện nên lúc đi anh bỏ quên cái túi cói quặc ở sau lưng ghế, em thấy có cái bản thảo truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” nên mạo muội đọc trộm, thấy nó hay nên mạo muội đem in, vì dạo này thiếu truyện hay quá, mà anh thì lại ở tít trên ấy, thành thử em không kịp xin ý kiến tác giả, nay có thằng Đỉnh lên, em viết thư này xin lỗi anh và em hứa, nếu có gì sai sót, em xin anh cho em được hoàn toàn chịu trách nhiệm. Cáo lỗi anh vậy. Lựu”.
Tôi lại thêm một lần ngạc nhiên thấy Nguyễn Minh Châu cứ ngồi lặng thinh với vẻ mặt thẫn thờ sau khi đọc “lá thư” Lê Lựu vừa sáng chế. Tôi pha xong ấm nước trà mới rót mời ông, nhưng Nguyễn Minh Châu không uống mà lặng lẽ đứng dậy, lặng lẽ kéo đôi dép lê ra khỏi “hang”, không hề quay nhìn lại chúng tôi lấy một lần.
3. Đọc Nguyễn Minh Châu ta cũng khám phá ra được sự phong phú của tiếng Việt, đặc biệt những thiên truyện ngắn càng về sau càng đặc sắc của ông.
Tôi nhớ có lần, tôi đang mải mê đánh máy một cái gì đó, chợt thấy có bóng người lảng vảng phía ngoài cửa kính. Hẳn có ai muốn tìm mình, tôi nghĩ và ra mở cửa. Nhà văn Nguyễn Minh Châu với cái túi cói xách tay cũ mèm, với đôi dép lê lẹp xẹp đang đứng tần ngần dưới sân, giống như ông đang vô tình ngắm nghía, săm soi tìm những chùm nho trên dàn nho, lại cũng giống như ông đang chờ ngóng ai đã hẹn trước. Tôi nắm bàn tay hâm hấp nóng, khô và mềm của ông kéo vào phòng, với cái giọng suồng sã, láo lếu:
- Mời ông anh vào nhà, gớm, nom ông anh cứ như thằng tâm thần ý.
Ông thụ động bỏ cái túi lép dưới chân ghế, ngồi bơ phờ nhìn tôi, rồi cười nhợt nhạt:
- Ông đang viết cái gì?
- Viết lách gì đâu anh. Em đang phải làm một cái việc chẳng vui vẻ tí nào.
- Việc gì ?
- Việc... gia đình ấy mà.
Ông lấy thuốc ra hút. Vốn là người tinh tế lại rất nhạy cảm với tình cảnh của người khác, ông ngồi im, lờ đờ thả khói thuốc.
- Anh Châu này, tôi rót trà và nghiêm nghị nói. Em muốn kể cho anh nghe câu chuyện mà em đang viết quá.
Ông lặng lẽ lấy quyển sách của ông mới in đưa cho tôi, nói:
- Tặng ông quyển này. Đọc nhau đã mệt lại còn định đuổi nhau bằng cái sự kể lể...
Thấy ông uống xong tách trà, định dợm đứng lên, tôi liền ra chốt cửa, nói bỗ bã:
- Anh buồn cười nhỉ. Ngồi xuống đây mà nghe thằng em, chỉ một câu thôi. Em viết sắp xong rồi. Nhưng càng về cuối nó càng trì trệ thế nào ấy. Một nhân vật suốt đời tin vào ý cấp trên. Một nhân vật suốt đời tin vào tôn giáo. Một nhân vật suốt đời tin vào vật chất. Một nhân vật suốt đời tin vào tình cảm. Họ đều là những người rất tốt, trong sáng, họ sẵn sàng quên mình hy sinh cho niềm tin yêu của mình để mong đóng góp cho đời. Vậy mà sao cuối cùng, tất cả cuộc đời của họ đều bi kịch thế…
- Ông viết xong chưa ?
- Dạ sắp.
- Góp ý cho ông thế nào được. Nhưng mà này, cuộc sống nó cứ trớ trêu thế mới là cuộc sống chứ. Trong cái đám nhân vật chắc chắn là rất nhem nhuốc của ông, giá mà có một thằng chẳng tin cái gì cả. Nó chỉ tin nó, còn mọi thứ chung quanh đều là phương tiện. Phải bắt cái thằng này ghé vai gánh hết những phần mà lũ người kia không gánh được, cũng có thể không biết đường nào mà gánh, hoặc có gánh cũng sợ hãi, vừa đụng tới là đã run bắn cả thần hồn lẫn thần xác lên rồi. Còn cái thằng này nó gánh cứ ngon ơ, hoặc giả có vẻ ngon ơ, nhưng kỳ tình, cu cậu cũng đang gánh bi kịch, không phải của riêng bản thân mà là của cả cái đám người kia cộng lại. Được như thế cuốn sách của ông sẽ có lối thoát.
Đã gọi là tiểu thuyết thì bản thân thể loại không có chuyện né tránh hiện thực, hay nói đúng hơn, những nhà tiểu thuyết chân chính không được phép né tránh mô tả hiện thực muôn vẻ, kể cả cái ác, vì cái ác bao giờ cũng mạnh mẽ và lẫm liệt, đầy mưu ma, chước quỷ; còn cái thiện thì lại ngu ngơ và ngây thơ, thường rất cả tin... Nhà văn mô tả cái ác để lột mặt nó ra và cũng là để nâng giấc cho những con người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn vào chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác của họ bị hắt hủi và đọa đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Vậy thì nhà văn phải đứng về phía họ, bênh vực họ. Nói thế có vẻ sáo mòn, nhưng mà thật đấy ông ạ…
Tôi vội đứng lên, nắm chặt bàn tay nóng hâm hấp của ông, nói:
- Tuyệt văn vời. Chỉ cần anh gợi ý như thế là em đã bắt được cái thằng ấy rồi. Nó cũng không phải là tội phạm, mà nó là nô lệ, là nạn nhân cho cái quan niệm sống ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa...
Tôi lại ấn ông ngồi xuống, nói:
- Thì ta có phải là thánh đâu, cũng còn phải tính toán trăm chiều chứ đâu có phải khoát tay một phát là lên đến giời .
- Thế cho nên độc giả người ta mới chán phè các bố. Chưa viết đã tính toán thì còn nói làm gì.
Nói rồi ông xách túi, kiên quyết ra về. Tôi biết không thể giữ ông, đành lẵng nhẵng theo ra cổng. Chúng tôi chia tay nhau nhạt nhẽo và buồn tẻ đến nao lòng.
Tôi lủi thủi trở về, không còn thiết làm gì nữa, đành cứ ngồi uống nước chè suông một mình, rồi lấy cuốn sách mới được ông tặng ra đọc.
Hồi ấy ông chưa biết ông đang bị trọng bệnh.