Từ con vét đến con chôm chôm
Dù không chủ quan “vơ đũa cả nắm”, không hồ đồ “chụp mũ” nhưng tôi dám nói rằng, bất kỳ quyển sách nào nếu đọc thật kỹ, lấy kính lúp sọi rọi từng chữ với tâm thế “vạch lá tìm sâu” ắt ta sẽ phát hiện ra một vài lỗi chính tả.
“Nói có sách mách có chứng”, thử nêu vài thí dụ, chẳng hạn, đọc tập sách “Văn nghệ một thời để nhớ” (NXB Văn Học - 2001) do nhà thơ Bảo Định Giang sưu tầm và biên soạn, ta thấy gì? Trong thư của nhạc sĩ Thanh Trúc viết cuối năm 1967, có đoạn cho biết mình đã: “Vào làng Dầu Tiếng diễn cách chốt Mỹ 700 mét thôi; cũng đã bị con vét ở địa đạo Củ Chi đất thép cắn sần mình, đầu đội pháo cực nhanh và B.52 của Mỹ, vậy mà chẳng hề hấn gì hết” (tr.503).
Ở đây, ta dễ dàng phát hiện ra con vét, phải là con vắt mới đúng. Do con vắt và con đỉa “cùng hội cùng thuyền”, na ná về hình dáng, y chang nhau “từ hình thức đến nội dung”, do đó, người ta còn gọi con vắt là đỉa đất. Khi gọi đỉa đất ta biết hoàn toàn khác với đỉa biển - còn có tên gọi là hải sâm sống ở vịnh và đá ngầm ở biển khơi.
Người ta phân loại con đỉa theo sắc màu của nó như đỉa xám, đỉa xanh lục, lại còn có đỉa trâu. Với cách gọi này, ta thấy nhằm chỉ sự vật gì to lớn hơn cùng loại thì người Việt còn “lôi” từ trâu vào minh họa cho dễ hình dung, ngoài “đỉa trâu”, còn có “chửa trâu” là nhằm chỉ thai phụ đã mang bầu đã “già tháng”, “quá ngày” nhưng vẫn chưa trở dạ. Tuy nhiên, nếu đỉa trâu còn gọi đỉa rồng thì sự mang bầu này lại không gọi như thế. Thât ngộ nghĩnh, ta có từ “ruồi trâu” lại không phải gọi cái con trong câu đố “Vừa bằng hạt đỗ, ăn giỗ cả làng” mà chính là… con mòng.
Khi nhắc đến con vắt/ đỉa đất nhiều cựu chiến binh từng chiến đấu ở chiến trường miền Đông Nam Bộ lại nhớ đến vùng Mã Đà chiến khu Đ (Đồng Nai) - một địa danh lừng lẫy, nơi mà những năm 1960 Trung ương Cục miền Nam có thời gian chọn làm nơi đóng quân. Bấy giờ, với tư cách là người phụ trách Đoàn Văn công Giải phóng, nhà văn Lý Văn Sâm cảm nhận tại vùng đất này: “Những con vắt nhỏ li ti như sợi tóc hoạt động rất nhanh nhẹn trên mặt đất đỏ au. Ở đâu cũng gặp vắt, ngay cả khi mình ngồi trên giường. Khi bám vào da thịt người cứ xoi mũi nhọn thành vết chảy máu, rồi thì cả chục con cứ bâu vào đó mà tiệc tùng cho đến khi no nê và to phóng ra như hạt đậu đen. Có thuốc rê và muối trộn vào nhau thì trừ nó được. Gọi là hạn chế bớt sức hung hãng của nó vậy thôi. Nó cứ việc tung hoành trên khắp cơ thể con người, kể cả những nơi kín nhất”.
Rõ ràng, con vắt trong thư của nhạc sĩ Thanh Trúc đã in sai thành “con vét” vô nghĩa.
Còn có thể nêu ra trường hợp khác, chẳng hạn, trong tập truyện ngắn “Hương quê” (NXB Trẻ - 2018) của nhà văn Bình Nguyên Lộc có câu: “Nhiều chủ bò có tiền, sắm bò lại dễ dàng, nhưng họ ngại bò mới lại ăn chôm chôm mà chết nữa. Vậy dám xin ông Trưởng ty gửi người về làng để xịt thuốc DDT hầu diệt con… sâu ấy, để làng tôi sắm lại bò” (tr.210). Sai lè lè kia kìa. Chẳng cần đọc lại lần thứ hai, ta đã biết là in nhầm chôm chôm/ trái chôm chôm thành “con sâu ấy”. Với trái chôm chôm, dân gian có câu đố:
Mình tròn lông mọc rậm rì
Sao không uống rượu mặt thì đỏ au
Cởi trần da trắng phau phau
Đã chẳng có đầu lại chẳng có đuôi
Về chữ nghĩa, chôm chôm là lặp lại của từ chôm: “Chôm: Có tua có lông”, “trái chôm chôm: loại trái trường lông” - theo “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895); “Nói về loài trái cây có nhiều lông, cây chôm chôm, cỏ chôm chôm (tiếng Nam Kỳ) - theo “Việt Nam tự điển” (1931). Trong Nam còn có từ “chà chôm” sở dĩ “chôm” xuất hiện là nhằm chỉ chà có nhiều nhánh nhóc xỉa ngang dọc. Mà chà là gì chứ?
Gá duyên khó chọn vừa đôi
Cũng như sông rộng, sợi chỉ trôi vướng chà
Lại có câu tục ngữ “Rung chà cá nhảy”… Chà là những nhánh cây, người ta “Thả xuống đìa, sông cạn, rạch kinh để tôm cá tới ở. Khi muốn bắt cá, người ta áp lưới xung quanh, dở chà ra và bắt cá”, “Phương ngữ Nam Bộ” (2015) của Bùi Thanh Kiên giải thích.
Từ chỗ hàm nghĩa là có tua có lông nhưng theo năm tháng, chẳng rõ vào thời điểm nào “chôm” lại thành tiếng lóng chỉ hành động ăn cắp của người khác, thí dụ ai đó bình phẩm: “Kìa, hắn ta ăn mặc bảnh tỏn, ai ngờ lại là dân chà đồ nhôm”. “Chà đồ nhôm” nói lái của chôm đồ nhà. Khi nhà văn Nguyễn Công Hoan viết truyện ngắn “Cụ chánh bá mất giày”, có câu: “Nếu ai mà hót với cụ rằng đôi giày mới của cụ, có đứa nào thó mất, thì hẳn cụ quăng bài đó, rồi cụ tra tấn cho ra”. Từ “thó” hoàn toàn có thể thay thế bằng từ chôm hoặc thuổng hoặc nẫng…
Qua hai dẫn chứng này, từ “con vắt/ con vét/” đến “chôm chôm/ con sâu”, rõ ràng in sai chính tả. Nói vậy, có ai cãi gì không?
Có chứ. Nếu con đỉa sống ở ao hồ, đồng ruộng, di chuyển bằng cách co duỗi cơ thể thì con vắt/ đỉa đất sống nơi đầm lầy, di chuyển bằng cách búng về phía trước. Môi trường trong lòng địa đạo Củ Chi không đáp ứng yêu cầu này, vì thế cả con vắt lẫn con đỉa cũng không có cửa xuất hiện. Hoặc giả đây chính là con ve - một loại ký sinh trùng sống bám trên da súc vật? Cũng vô lý nốt bởi ở đó làm gì có chó, mèo sống chung mà sinh ra loại bọ này?
Vậy, con vét là con gì?
Trao đổi với tôi, các diễn viên của Đoàn Văn công Giải phóng từng sống chung với nhạc sĩ Thanh Trúc giải thích, đây là một loại ký sinh trùng nhỏ li ti, chỉ có ở địa đạo bỏ hoang lâu ngày, mắt thường không nhìn thấy, nó bám vào da thịt cắn rất ngứa khiến cả mình mẩy nổi sần lên. Con vét hiểu theo nghĩa này, từ điển hiện nay chưa ghi nhận.
Còn câu văn của nhà văn Bình Nguyên Lộc, đoạn trên vừa nhắc đến “chôm chôm”, ngay đoạn dưới lại viết “con sâu” thì thế nào? Xin thưa cũng chính xác nốt.
Các diễn viên của Đoàn Văn công Giải phóng cho biết thời chiến tranh, ở trong rừng, họ đã bắt và ăn con chôm chôm. Nó tựa con nhện, cũng có lông, cỡ ngón tay út, khi muốn bắt người ta cầm cái que đỏ lửa đưa lại gần, trong miệng ngậm một ít dầu hôi phun vào que lửa đó, hơi nóng tỏa ra khiến chúng rụng xuống. “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895) cho biết: “Con chôm chôm: Loại nhền nhện cao cẳng, hay chạy trên mặt nước. Người ta nói nó độc, ăn nhầm nó phải chết”.
Nhà văn Bình Nguyên Lộc cho biết: “Dân quê miền Nam tin rằng ở dưới cỏ đồng có một con vật bé xíu, hễ bò mà ăn phải nó thì chướng lên rồi lăn đùng ra mà chết… Từ ngày miền Nam được khai hoang cho đến nay là trên 300 năm rồi mà chưa hề có ai ngó thấy con vật ấy ra sao cả, nhưng không hiểu sao, họ lại biết rằng nó là nguyên nhơn của bịnh chướng bụng của bò, và lại đặt tên cho con vật bí mật ấy hẳn hoi: đó là con chôm chôm. Thỉnh thoảng có người bắt được một loại nhện đồng, nhỏ bằng mút đũa, chơn cẳng cao nghệu, ốm nhom, đầy lông lá, và quả quyết rằng đó là con chôm chôm, nhưng không ai đủ can đảm cho bò mình ăn thử con chôm chôm, coi quả nó gây được bịnh chướng bụng của bò hay không”.
Quan niệm sai lệch này đã tồn tại trong suy nghĩ bà con nông dân miền Nam hàng trăm năm, do đó, một khi con bò đang “khỏe re như bò kéo xe” bỗng nhiên sình trướng bụng rồi lăn ra chết, người ta quả quyết chính là do bò ăn phải con chôm chôm. Lúc nhân vật thằng Ất báo tin: “Anh Sáu Theo đang đươn rổ xúc cá, nghe réo ngóng cổ lên: “… Con chôm chôm”. Anh chỉ nghe tiếng trẻ réo anh, và chỉ nghe được hai tiếng chôm chôm thôi, vậy mà anh chết điếng trong lòng mấy mươi giây”. Người ta tin rằng nếu kịp thời đốt lửa hơ dưới bụng rồi lấy nước mắm lâu năm - loại đã chôn dưới đất dăm bảy năm đổ vào con bò đó thì may ra mới cứu được. Nhưng rồi không thể.
Con chôm chôm có nộc độc ghê gớm vậy à?
Sau khi nhận đơn kêu cứu của bà con về tình trạng thê thảm này xảy ra liên miên, Ty Cải cách cải tiến nông thôn mới cử nhân viên về làng đó. Họ bắt con chôm chôm thế nào, có giống như các diễn viên của Đoàn Văn công Giải phóng đã kể? Không, họ không đi tìm con chôm chôm mà… chích thuốc phòng ngừa cho trâu bò khỏe mạnh, dùng thuốc DDT xịt nơi ao tù nước đọng, nơi con sông dòng suối chỉ vì lúc trâu bò chết toi “bà con quăng xuống sông” gây ô nhiễm dòng nước từ làng này qua làng khác. Trâu bò chầu Diêm vương là do uống nước ô nhiễm, chứ nào phải do ăn con chôm chôm.
Tóm lại với trường hợp khi bàn về con vét, còn chôm chôm, ta thấy gì?
Xin thưa rằng, một khi đọc sách thấy một từ nào đó là lạ, chưa hề nghe thấy bao giờ thì đừng vội lớn tiếng phê phán nọ kia rằng in sai chính tả, cứ bình tĩnh tìm hiểu xem sao. Mà, trong qua trình đó, cũng là lúc ta học thêm được vài từ mới đã có từ đời tám hoánh mà nay mình mới biết đến. Nói như thế, để thấy rằng, dù là người Việt, lọt lòng ra đã nghe, đã nói tiếng Việt nhưng chắc gì ta đã hiểu hết các từ trong tiếng Việt.

Ngủ ôm rơm, hơi ấm ổ rơm