Những lá thư trong thời khắc sinh tử ở Thành cổ Quảng Trị

Thứ Bảy, 27/09/2025, 22:16

Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị, ở tầng hai, nơi trong cùng một tủ kính lưu giữ hai di vật đặc biệt: bức thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh (quê Kiến Xương, Thái Bình; nay thuộc Hưng Yên) và những kỷ vật của liệt sĩ Lê Binh Chủng (quê Quỳnh Lưu, Nghệ An). Những kỷ vật ấy không chỉ kể câu chuyện của hai gia đình liệt sĩ mà còn thay lời cho cả một thế hệ thanh niên ra trận, hy sinh và để lại những trang thư, hiện vật như chứng nhân của mùa hè đỏ lửa 1972.

Lá thư chỉ đường trở về

Trong số những di vật đang lặng lẽ nằm trong tủ kính tầng hai, bức thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh như dẫn người đọc trở lại mùa hè đỏ lửa năm 1972. Ngày 11/9/1972, đúng ngày thứ 77 của 81 ngày đêm giữ Thành cổ, anh ngồi đâu đó trong pháo đài gạch vỡ, viết "vài dòng chữ cuối cùng". Bức thư dài 10 trang, gửi mẹ, gửi vợ, gửi người thân, vừa xin lỗi, vừa an ủi, vừa căn dặn. Trong những dòng chữ bình thản đến lạ ấy, anh còn vẽ một bản đồ để chỉ chỗ mình hy sinh. Khi hòa bình, nếu có điều kiện vào Quảng Trị, đi tàu vào thị xã, qua sông Thạch Hãn là nơi anh đã ngã xuống. Qua cầu ngược trở lại, hỏi Nhan Biều 1, tính xuôi dòng, cuối làng sẽ thấy bia ghi tên anh đục trên mảnh tôn…

thco1.jpg -0
Bức thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh và các kỷ vật của liệt sĩ Lê Binh Chủng được trưng bày trong tủ kính tại Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị
 

Anh ngã xuống trước khi phong thư kịp rời tay. Đồng đội giữ lại, như giữ một lời nhắn sau cuối. Năm tháng trôi qua, bức thư trở về với quê nhà, còn thi hài anh ở lại cùng dòng sông Thạch Hãn, nơi người sống và người đã khuất cùng nghe tiếng bom vọng về trong ký ức.

Giữa năm 2002, gia đình lần theo bức thư vào Quảng Trị. Con nước Thạch Hãn hôm ấy hiền như thể đã chờ. Người làng Nhan Biều dẫn đường, dừng ở cuối làng, nơi mảnh tôn khắc tên người trai quê lúa vẫn lặng lẽ trông dòng. Hài cốt được tìm thấy gần trùng khớp lời anh viết. Người thân đưa anh về. Rồi công việc tưởng như chỉ của gia đình bỗng trở thành tấm lòng chung của cả làng. Từ lễ viếng đến xây mộ, làm sạch cỏ quanh khoảnh đất nhỏ, ai cũng góp tay như đang làm phần việc của chính gia đình mình.

Bà Cáp Thị Thiên Trang, Trưởng Ban quản lý Di tích quốc gia đặc biệt Thành cổ Quảng Trị cho biết, bà được ông Trần Khánh Khư, nguyên Trưởng Ban, kể rằng trong một lần ra Hà Nội nghe những cựu chiến binh nhắc chuyện lá thư, ông đã lặn lội về thăm gia đình và xin được xem. "Thấy gai cả người", ông nói. "Thư viết cho gia đình nhưng nhắn lại cho mai sau. Nếu chỉ giữ ở nhà, nó là kỷ vật gia đình. Đem đặt ở Thành cổ, nó là ký ức chung". Sau nhiều lần thuyết phục, đến cuối năm 2003, bức thư được trao lại và đặt trang trọng trong nhà trưng bày - nơi bây giờ, mỗi ngày, biết bao đôi mắt dừng lại để đọc và nhiều người lặng lẽ lau mắt.

Tôi gặp một người mẹ từ Nam Định vào thăm Thành cổ. Đôi tay bà run run đặt lên tấm kính, môi mấp máy đọc từng chữ: "Mẹ kính mến… con đi xa rồi… mẹ đừng buồn… coi như con đã sống trọn đời cho Tổ quốc…". Bà nói những dòng thư này như viết cho mọi bà mẹ Việt Nam, bởi "đọc thư của các anh, tự nhiên tôi thấy như có con mình ở đây".

Bức thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh không hề cầu kỳ văn chương. Nó mộc mạc như lời dặn trước lúc đi xa, dặn tiết kiệm nước mắt cho ngày chiến thắng, đọc cho cả nhà nghe trong buổi truy điệu rồi chỉ đường cho người ở lại. Chính sự bình thản ấy làm câu chữ thêm sức nặng, và chính sự rành rọt của đường đi lối lại khiến người đọc nghẹn ngào. Ít ai ngờ người sắp hy sinh còn lo cho việc trở về của chính mình. Anh sợ người thân sẽ phải vất vả tìm kiếm và xót đau mỗi khi chưa tìm thấy hài cốt, nên đã dặn dò tỉ mỉ từng lối đi, từng tên đất bên dòng Thạch Hãn.

Bà Nguyễn Thị Thu Thủy, quê ở Cát Bi, TP Hải Phòng, trong chuyến vào thăm Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị vào trung tuần tháng 9/2025, đã mang theo một bó hoa cúc trắng. Bà đứng lặng rất lâu trước tủ kính trưng bày những bức thư và di vật của các liệt sĩ. Hai tay nâng nhẹ bó hoa, mắt rưng rưng nhìn qua lớp kính, như muốn trò chuyện với những dòng chữ đã nhuốm màu thời gian. Không một lời, chỉ có sự lặng im cùng bó hoa trắng, nhưng chính khoảnh khắc ấy đã trở thành một nốt lặng đầy xúc động trong không gian trưng bày - nơi người xưa để lại trái tim mình và người nay tìm được lối trở về với lịch sử.

5 ngày cuối cùng dưới hầm

Đối diện bức thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh là di vật của liệt sĩ Lê Binh Chủng - hai tấm ảnh nhỏ, một cuốn sổ tay, cây bút và vài lá thư cũ, tất cả đều sẫm màu thời gian. Câu chuyện của anh được phát hiện vào khoảng cuối năm 2000, khi thi công hệ thống thoát nước trong Thành cổ. Đào đến một đoạn, tốp công nhân gặp nền đất cứng bất thường, khác hẳn dự kiến ban đầu. Đào kỹ hơn, họ chạm vào một hầm trú ẩn kiên cố. Bên trong là 5 hài cốt. Trong số đó có một người vẫn ghì chặt chiếc xắc cốt vào ngực, như ôm trọn những ký ức cuối cùng của đời mình.

Khi mở chiếc xắc, người ta thấy một bọc nilon. Bên trong là sổ tay đảng viên, nhật ký, 3 lá thư - trong đó có thư của chị Phan Thị Biển Khơi, vợ liệt sĩ Lê Binh Chủng. Những trang giấy dính bết, chữ mất chữ còn lẫn lộn sau 28 năm nằm dưới lòng đất. Đặc biệt, trận lũ lớn tháng 11/1999 tràn qua làm giấy thêm mục, mực nhòe đi, nhiều chỗ biến mất hẳn. Người ta phải gỡ từng tờ, phơi từng ký ức, ghép lại từng mảnh để hình dung những ngày cuối cùng trong căn hầm bị bom vùi.

Câu chuyện như sau. Đầu tháng 8/1972, một quả bom lớn từ máy bay AD-6 đánh sập góc tường thành, đè lên căn hầm của 5 người lính. Bên ngoài đồng đội gọi nhau í ới, trong hầm 5 người kêu cứu nhưng mọi âm thanh đều như bị đất nuốt. Các đợt tấn công nối tiếp, người bên ngoài bị cuốn vào trận; người bên trong đếm ngược thời gian sống của mình. Không khí cạn dần, mọi hy vọng tắt dần. Bốn người lần lượt tắt thở. Chỉ còn Lê Binh Chủng - người chỉ huy - sống lâu hơn để vuốt mắt đồng đội, xếp lại tư thế nằm, ghi vội nhật ký, đọc dè sẻn từng đoạn thư của vợ như nhấm từng giọt nước cuối cùng. Trong bóng tối đặc quánh ấy, hơi thở của anh trở thành hơi thở cuối cùng của cả 5 người.

Trong sổ tay của Lê Binh Chủng, những trang đầu ghi công tác của đơn vị, lệnh giao ban, công việc thường ngày. Về sau chữ bắt đầu lệch đi, câu cú thở dốc. Anh viết: "Hôm nay, hình như là ngày thứ hai… còn nghe rõ tiếng anh em gọi nhau… đèn pin yếu dần… lấy thư của Khơi ra đọc… không dám đọc hết một lần… để dành mai…". Rồi lại viết: "Hôm nay, chiến sĩ thứ tư… lại hy sinh… còn một mình… đèn đã rất yếu… nhớ con… nhớ Khơi…".

Các mảnh câu được nhặt lại như những mảnh vải chắp vá. Nhưng sợi chỉ xuyên suốt thì rõ ràng: một người lính còn sống vì đã trót là người chỉ huy; một người chồng còn gắng vì vẫn là chồng của Biển Khơi, cha của đứa con chưa kịp nhìn mặt. Người ta bảo khi cái chết đến gần, ý nghĩ cuối cùng của con người là về điều họ yêu thương nhất. Ở căn hầm này, chính điều yêu thương đã giữ anh sống thêm 5 ngày. Ngày cuối cùng, ước đoán là 7/8/1972, Lê Binh Chủng gói gọn giấy tờ, ôm chặt xắc cốt, ngồi tựa lưng vào vách hầm, chờ bóng tối. Giấy báo tử sau này ghi 3/8/1972, ngày hầm bị vùi. Nhưng trong sổ tay, kim đồng hồ và ý thức về "ngày mai thứ 5" như một sự phản bác lặng lẽ, nhắc rằng anh đã sống thêm để giữ lại chứng tích cuối cùng của cả 5 người.

Hai bức thư của chị Phan Thị Biển Khơi đề ngày 20/1/1972 và 15/5/1972 đọc lên nao lòng. Cả một hậu phương đi vào chiến tranh qua những câu chữ bình dị, kể chuyện con bỏ bú, ăn cơm sẵn cá, cầu Lý Hòa bị cắt, vừa gặt vừa tập quân sự, máy bay oanh tạc phải ngủ hầm, mùa lúa tốt cả nhà khỏe. Và có một câu như khắc vào tâm khảm người lính: "Khi nước nhà thống nhất, chúng ta gặp nhau đều là những người cộng sản đỏ". Chính những bức thư ấy, trong hoàn cảnh ngặt nghèo, trở thành ánh sáng diệu kỳ thắp lên 5 đêm cuối cùng trong căn hầm tối, nơi sự sống đang dần lịm tắt.

Anh Lê Binh Chủng và chị Phan Thị Biển Khơi gặp nhau ở Quảng Bình, khi anh Chủng đang đóng quân tại đây. Họ yêu nhau và được đơn vị của anh tổ chức một lễ cưới giản dị. Gia đình anh Chủng không hề hay biết. Sau này, chị Khơi từng tìm về quê chồng nhưng không lần ra địa chỉ. Mãi đến khi hài cốt liệt sĩ Chủng được cất bốc, gia đình mới hay anh từng có vợ, rồi mới biết anh có một người con trai.

thco2.jpg -0
Khách tham quan nghe thuyết minh về kỷ vật của các liệt sĩ Lê Văn Huỳnh và Lê Binh Chủng. Ảnh: Thanh Bình

Từ 28/6 đến 16/9/1972, 328.000 tấn bom đạn trút xuống Thành cổ và thị xã Quảng Trị, ta và địch giành giật từng thước đất để lấy đà cho bàn đàm phán Paris. Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 2 (khi ấy là Trung đoàn phó Trung đoàn 9, Sư đoàn 304), từng nói: "Trung bình một ngày đêm ta hy sinh một đại đội - khoảng 100 người". Con số lạnh như gió đông. Nhưng hai kỷ vật kia - bức thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh và di vật của liệt sĩ Lê Binh Chủng - lại làm gió hóa thành hơi người. Bộ phim "Mùi cỏ cháy" có câu thoại ám ảnh: "Mùa hè năm ấy, hy sinh nhiều quá, toàn là lính trẻ". Đứng giữa Thành cổ, tôi bỗng nhớ câu ấy. Lê Văn Huỳnh "đi nghiên cứu bí mật trong lòng đất" khi chưa kịp làm tròn bổn phận một người chồng. Lê Binh Chủng ở lại 5 ngày trong hầm vùi, đọc thư từng đoạn như nhấp từng ngụm thở. Những người lính trẻ - có khi bằng hoặc ít tuổi hơn những người đang đọc những dòng này - đã sống và chết rất mực bình thường. Chính sự bình thường rành rẽ ấy làm sự hy sinh của họ trở nên phi thường.

Ở Thành cổ, tiếng thuyết minh của hướng dẫn viên đôi khi đứt quãng, không phải vì thiếu thông tin mà vì nghẹn. Chiến tranh không chỉ là khói lửa hay con số hy sinh, mà còn là con người thật, tình yêu thật và nỗi chờ đợi thật - những điều thầm lặng nhưng vĩnh viễn còn sống trong ký ức Thành cổ hôm nay.

Phan Thanh Bình
.
.