Duyên nghiệp với nghề báo
Mỗi khi rời quán cà phê, không biết vô tình hay hữu ý, có một người thanh niên thường để lại một tờ nhật báo. Tôi coi đó như một món quà để tiêu khiển lúc quán xá vắng khách. Chính những tờ báo ấy đã giúp tôi định hình lại nghề nghiệp. Chợt nhận ra mình đã học “sai nghề”!...
1. Giữa năm 2006, tôi trúng tuyển vào ngành Sư phạm Ngữ văn, Trường Đại học Đà Lạt. Đó là một “cú đúp”, vừa trở thành một tân sinh viên, vừa được học ngành Sư phạm đáng tự hào. Đó là ngành học khi ấy được nhiều người mong ước vì… không phải đóng học phí. Cánh sinh viên đến từ miền Trung phần lớn là nghèo, khó khăn cơ bản chia đều như nhau. Ngày đi học, tối hoặc cuối tuần được nghỉ, mọi người đều cố tìm riêng cho mình một công việc để làm. Ai cũng kỳ vọng cuối tháng sẽ có thêm chút tiền mà cải thiện bữa ăn. Nhất là để giảm bớt gánh nặng về cơm, áo cho cha mẹ. Thành thử, sinh viên chúng tôi ngày ấy, hoặc do gia đình ở quê quá khó khăn, hoặc vì bản tính con người miền Trung cần kiệm, rảnh thì không chịu được. Rồi kẻ đi làm gia sư, người xin cuốc đất, thu hoạch rau, kẻ gánh vác bắp sú, đứa rửa chén, bán thuê… vào những lúc không phải lên giảng đường.
Tôi có được việc làm theo ca tại quán cà phê trên phố núi ngàn hoa, gần Ngã 5 Trường Đại học Đà Lạt với nhiệm vụ trông coi, sắp xếp xe cộ cho khách. Bấy giờ, đó là quán cà phê sang trọng nhất vùng với lượng khách khá đều. Bước sang năm 2, tôi được chủ quán chuyển vào trong làm nhân viên bưng bê phục vụ. So với chuyện đồng áng ở quê, đó là công việc nhẹ hều mà mỗi tháng vẫn kiếm được 150.000 đồng, đủ để mua gạo, gia vị và nhiên liệu, vì khi đó sinh viên trên miền đất lạnh hầu hết nấu ăn bằng bếp dầu hỏa.
Tôi bắt đầu chú ý tới một vị khách đặc biệt, gần như sáng sớm nào vị khách ấy cũng xuất hiện với chiếc ba lô bụi bặm cùng tờ nhật báo Tuổi Trẻ trên tay. Gã có mái tóc dài quá bờ vai, rối bời và bộ ria mép lâu ngày biếng cạo. Gọi xong ly cà phê, anh thường có thói quen vắt chéo chân rồi đọc báo. Tôi có thể định hình được sự hài lòng hay thất vọng của gã mỗi khi đọc tin tức, bài vở trong tờ nhật báo qua nét mặt đầy biểu cảm. Vị khách này vốn đơn độc hoặc lấy sự đơn độc làm sở thích cá nhân. Chẳng khi nào thấy gã ngồi chung bàn hay trò chuyện rôm rả cùng ai. Vô tình gặp người quen trong quán, gã chỉ khẽ gật đầu. Đó là ám hiệu thay cho lời chào xã giao.
Lúc rời quán, tờ báo đọc xong thường được anh bỏ lại. Với tôi, đó là “món quà” dùng để tiêu khiển thời gian khi quán xá vắng khách. “Mót báo” riết rồi hóa thành thói quen hứng thú mỗi ngày, thật khó bỏ. Có hôm, gã không tới quán hoặc tới nhưng không để lại tờ báo đã đọc, tôi bỗng tiếc nuối, giận gã vu vơ.
Rồi chị chủ quán tiết lộ, người có chiều cao khiêm tốn, phong cách bụi trần trên là Nguyễn Hàng Tình, một phóng viên hay viết về đề tài văn hóa, đời sống theo thể loại bút ký rất sâu sắc. Sau này, chỉ cần đọc đoạn sapô trên mỗi bài báo, tôi dễ dàng nhận ra đó là bài viết của gã mà không cần nhìn phần ghi chú tác giả. Những bài báo ấy mang phong cách rất riêng, đậm dấu ấn điển hình cá nhân, đó là phong cách rất Nguyễn Hàng Tình.

2. Những tờ báo anh để lại ở quán cà phê năm ấy đã giúp tôi, một sinh viên năm 2 định hình lại nghề nghiệp trong tương lai. Tôi bắt đầu tìm hiểu nhiều hơn về nghề báo và tập tành viết những bài báo khó nhọc đầu tiên. Không thầy, không người hướng dẫn, giới thiệu, tôi chập chững vào nghề viết báo từ những bước đi tự lập. Không có máy tính, cũng chẳng có máy ảnh, tôi vẫn hăm hở đi bộ hàng chục cây số để tìm kiếm tư liệu mỗi khi nghe lỏm được ai đó trò chuyện về một điều thú vị trên miền đất này.
Vì thế, có lẽ tôi là đứa sinh viên đầu tiên lọ mọ chui xuống lòng đất, khám phá đường hầm bí mật do người Nhật đào trong thế chiến thứ 2, thông vào một số căn biệt thự trên đường Yên Thế, TP Đà Lạt, sau Cung Nam Phương Hoàng Hậu ngày nay. Tất cả tư liệu đều được viết tay vào cuốn vở, sau đó mới đem ra tiệm internet gõ và in ra giấy A4 rồi gửi đi theo đường bưu điện. Bài báo đầu tay của tôi được xuất bản trên tờ Phụ Nữ Việt Nam, tiếp đó là Tạp chí Gia Đình…
Phát hiện tôi có máu đam mê với nghề viết báo, các anh chị làm báo kỳ cựu ở Đà Lạt đã hỗ trợ tôi rất nhiều. Cũng trong thời gian này, niềm vui ập tới với tôi khi Báo Sinh viên Việt Nam liên hệ ký hợp đồng cộng tác viên, hỗ trợ tiền theo tháng sau nhiều bài được đăng trên tờ báo này. Dành dụm nhuận bút, tôi lần lượt mua được máy tính bàn, kết nối với internet, chiếc máy ảnh mini cầm tay, máy ghi âm, rồi chiếc xe máy cũ... Vậy là đủ điều kiện cơ bản để một gã sinh viên Sư phạm Ngữ văn hành nghề kiếm sống sau những giờ trên giảng đường bận rộn.
Năm 2008, loại hình báo điện tử bắt đầu phát triển mạnh. Có máy tính trong phòng trọ, tôi được tiếp cận nhiều hơn với cách làm báo điện tử hiện đại. Tôi cộng tác với nhiều tờ báo, như Tuổi Trẻ, Vnexpress.net, Sinh viên Việt Nam, Kiến thức… Thu nhập từ nhuận bút cũng dần tăng lên, có tháng lên tới hơn năm triệu đồng. Đó là khoản tiền đáng mơ ước của cánh sinh viên phố núi…
Khi phát hiện ra có “thằng sinh viên viết báo”, chính Nguyễn Hàng Tình, người từng bỏ lại những tờ báo ở quán cà phê bao năm trước đã kéo tôi vào danh sách tập huấn kỹ năng viết tin bài, chụp ảnh báo chí. Về sau, với sự dẫn dắt, chỉ dạy tận tâm từ những người thầy là đồng nghiệp đi trước, sự nỗ lực không ngừng của bản thân, tôi càng đam mê với nghề.