Rượu ngang cuốc lủi ba xi đế
Người Việt có điển tích, điển cố hay không? Nếu có, tại sao văn chương cổ điển nước nhà phải vay mượn từ Trung Quốc? Ngày nay, đọc “Truyện Kiều”, “Chinh phụ ngâm”, “Lục Vân Tiên” … người đọc cần phải có một số vốn kiến thức nhất định mới hiểu trọn vẹn những gì mà tác giả đã gửi gắm trong từng câu, từng chữ.
Chợt nghĩ, sao không sử dụng các nhân vật đã có của Việt Nam? Bởi lâu nay, khi cần nói điều gì đó, chúng ta thường mượn lấy điển tích nước ngoài mà quên rằng, nước Việt ta cũng có những câu chuyện, nhân vật tiêu biểu, khái quát, sâu sắc không thua kém gì.
Những nhân vật, sự việc như “Quả cam Trần Quốc Toản”, “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”, “Thần tốc như Quang Trung”, “Sợ vợ như Thúc Sinh”, “Số đỏ như Xuân Tóc Đỏ”, “Tình bạn Lưu Bình - Dương Lễ”, “Nồi cơm Thạch Sanh”, “Oan Thị Kính”, “Quả dưa An Tiêm”, “Say như Chí Phèo”, “Xấu như Thị Nở”, “Cọc nhọn Bạch Đằng”, “Bi kịch Kép Tư Bền”, “Nghĩa hiệp Lục Vân Tiên”, “Khí phách Trần Bình Trọng”, “Lớn nhanh như Thánh Gióng”, “Nghèo như chị Dậu” v.v… hoàn toàn có thể xây dựng thành điển tích, điển cố đồng hành trong đời sống của người Việt.

Về nền văn học Việt Nam hiện đại, tôi nghĩ rằng, một khi các nhà văn tiền bối như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Ngô Tất Tố… đã xây dựng thành công những nhân vật điển hình làm rạng rỡ cho cả nền văn học không chỉ của một thời; một khi nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã “khai sinh” ra Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh... cũng có sức sống lâu dài v.v… Vậy, sự kế thừa, nối tiếp đưa các nhân vật ấy “sống lại” trong thời buổi này, cũng là một cách phổ cập nhiều hơn nữa với thế hệ trẻ. Để rồi khi nhắc đến các nhân vật này, tự nó đã hàm chứa những tính cách, sự việc dù không nói toẹt ra nhưng ai cũng hiểu.
Trong số các nhân vật này, ta hãy dừng lại với Chí Phèo. Chỉ mới vừa nghe nhắc tên, ngay lập tức chúng ta đã thấy… “xộc lên mùi rượu”. Chí Phèo uống rượu gì? Rượu Làng Vân, Bàu Đá, Gò Đen, Cây Lý? Hầu hết các loại rượu này đều có màu trắng chứ gì? Nhưng trắng như thế nào?
Khi chưng cất gạo ra chất lỏng lên men, gọi “rượu trắng” là hợp lý quá bởi nước màu trắng. Nhưng trong Nam còn gọi “rượu đế”, tức gọi theo tên của loại cỏ đế mà người ta sử dụng đun lò lúc chưng cất, nấu rượu ngoài đồng ruộng nhằm tránh né sự bắt bớ bởi quy định nhà nước. Nói trắng phớ ra là nấu rượu lậu.
Một khi trong Nam còn gọi “rượu đế” ám chỉ “rượu lậu”, trong khi đó, ngoài Bắc gọi “rượu ngang” - cách giải thích phổ biến nhất hiện nay trên Google: “vì rượu được tiêu thụ theo kiểu đi ngang về tắt”.
Thật ra không phải.
Thời Pháp thuộc, người Pháp độc quyền cung cấp rượu, gọi “rượu ty”. Các đại lý bán rượu này, phải đóng thuế môn bài cho nhà nước, rồi hàng quán bán rượu tất nhiên cũng mọc lên nhằm đáp ứng nhu cầu của các vị đồng hội cùng thuyền với Chí Phèo, Lưu Linh… hay các bậc văn nhân: “Đất say, đất cũng lăn quay/ Trời say, mặt cũng đỏ gay ai cười” (Tản Đà). Nơi ấy, còn gọi “tiệm/ tiệm rượu” là do từ “điếm” chuyển gốc Hán - Việt mà ra.
Dám nói chắc rằng, rất ít người biết rằng trên đất nước ta có… địa danh Tiệm Rượu! Nghe cứ như đùa. Ấy mà lại có thật. Rằng, thời Pháp thuộc người Pháp đã mở nhà máy rượu SICA tại làng Mỹ Xuyên bên sông Thu Bồn (Quảng Nam), trụ sở đặt tại thôn Tiệm Rượu, tên gọi của nó chính là xuất phát từ lý do này, thay thế cho tên đã có sẵn là Tứ Chánh. “Khi đất nước thống nhất, làng được chia thành hai thôn là thôn Xuyên Đông và thôn Tiệm Rượu. Đây là lần đầu xuất hiện từ “Tiệm Rượu” như một đơn vị hành chính” (Làng cổ ven sông Thu Bồn - báo Tuổi Trẻ ra ngày 15/8/2024). Chi tiết thú vị này cho thấy sự ra đời của địa danh, đôi khi chỉ đơn giản như vậy.
Như đã biết, do quy định cấm đoán thời ấy nên rượu nấu theo lối thủ công, còn gọi “rượu lậu” - ta hiểu là rượu trốn thuế, không được phép nấu. Vậy, ngoài Bắc gọi ngang/ rượu ngang là hiểu theo nghĩa không theo phép tắc như ta đã có từ “làm ngang: Làm không theo phép, muốn làm thế chi thì làm; nói ngang: nói bỏ luật, bỏ phép” - theo “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895).
Dù chỉ được uống “rượu ty” do nhà nước sản xuất, thế nhưng người Việt lại ưa chuộng rượu nấu theo lối chưng cất từ xửa từ xưa nên gọi nôm na “rượu quốc hồn/ quốc túy” - là rượu chất lượng cao, tuyệt đỉnh/ cực đỉnh của người Việt. Éo le thay, nhà nước lại cấm, muốn nấu phải trốn chui trốn nhủi nên nói trại thành “rượu cuốc lủi”. Lủi là chui trốn, lẩn tránh, trốn chui trốn nhủi, giấu mặt nhanh như chớp. Gọi như thế bởi người ta tách “quốc” ra khỏi “quốc hồn/ quốc túy” - mặc nhiên thừa nhận “quốc” là con chim quốc - bằng chứng Bà Huyện Thanh Quan có câu thơ: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc”, nghe ra cái âm “quốc” na ná như cuốc/ chim cuốc.
Cái sự nhại âm này, còn có thể nhìn thấy qua câu nói của người miền Nam như “Tam hoàng chí cuốc” - là cách nói tắt của cái thời “Tam hoàng Ngũ đế” kết hợp với trường thiên tiểu thuyết “Tam quốc chí”: ngụ ý phàn nàn về câu chuyện đã có từ đời tám hoánh, xa lắc xa lơ mà mình buộc phải nghe ai đó kể lại dông dài, cà kê dê ngỗng từ dây cà ra dây muống khiến nghe phát mệt.
Khi gọi “rượu cuốc lủi” là không chê vào đâu bởi bản thân con cuốc luôn lủi nên mới có câu thành ngữ “Lủi như cuốc”, từ đó, bản thân cụm từ “rượu cuốc lủi” đã phản ánh cả hai tính chất: 1. Rượu nấu theo lối truyền thống của người Việt; 2. Thời điểm đó, rượu này được nấu chui, nấu lậu, bất chấp răn đe của nhà nước nên phải lủi, phải trốn tránh. Thì ra cách gọi của dân gian đúng là “chuẩn không cần chỉnh”. Sực nhớ, ngày xưa có anh chàng nọ nhờ cô gái khâu vá giùm chiếc áo rách, bèn hứa hẹn:
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho:
Giúp cho một thúng xôi vò,
Một con lợn béo, một vò rượu tăm.
Rượu tăm cũng màu trắng, cực ngon, là “Thứ rượu rúc đặc lại, có thể dùng tăm chấm vào mà mút cũng say” - theo “Việt Nam tự điển” (1931). Như vậy, “tăm” ở đây không phải thứ bọt nhỏ từ dưới đáy nổi lên mặt nước - như khi ta nói “lặn mất tăm” là không để lại dấu vết gì. Rượu tăm là rượu cực ngon, trong truyện ngắn “Hương cuội”, nhà văn Nguyễn Tuân cho biết: “Cụ nhà ta quý nó hơn vàng. Khi rót rỏ ra ngoài một vài giọt, lúc khách ra về, cụ mắng đến phát thẹn lên”. Dù hiểu là thế, nhưng có điều lạ, khi trong Nam gọi “rượu tăm” cũng là “rượu bọt” tức là “rượu rót ra mà có nhiều bọt; rượu ngon” - “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895) cho biết.
Vậy, có gì mâu thuẫn không?
Trong “Manuel de Conversation Francaise - Annmite” in tại Sài Gòn đầu thế kỷ XX có câu đàm thoại: “Buvez - vous de la bière du vin?/ Anh uống rượu bọt hay rượu chát?” (tr.133). Rõ ràng, “rượu bọt” thời người Pháp mới sang nước Nam, người Việt sử dụng nhằm để chỉ bia. Về sau, cách gọi này đã khác. Một khi nói “rượu tăm/ rượu bọt thứ rượu rất ngon” thì ai ai cũng hiểu theo nghĩa “Việt Nam tự điển” (1931) đã giải thích, chứ bản thân nó không còn phải là “bière” như người Việt lần đầu biết đến và sử dụng loại thức uống này.
Đố ai ngồi võng không đưa
Ru con không hát anh chừa rượu tăm
Rượu tăm còn được vinh dự xuất hiện trong lễ hội đặc biệt của người Việt xưa, “Việt ngữ nghiên cứu” (NXB Thế Giới - 2020), ông Phan Khôi cho biết: “Làng Khúc Lạc, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ, vào ngày 26 tháng Giêng mỗi năm có cử hành một đám rước nhằm lúc xẩm tối. Tại đình làng, người ta chuẩn bị mọi đồ lễ nghi, dùng gỗ đẽo ra ba mươi sáu cái hình sinh thực khí, mười tám cái đàn ông, mười tám cái đàn bà, gọi là ba mươi sáu cái nõ nường. Xong đâu đấy, rồi người ta hội cả dân làng trai gái, cung thỉnh ba mươi sáu cái ấy đặt trên kiệu rước về nơi nghè là nơi miếu thờ. Trong khi rước đi, cả dân làng đi theo, riêng có mười sáu người khiêng kiệu, tám người nam, tám người nữ, đều ở trần, đóng chiếc khố rách. Mười sáu người khiêng kiệu ấy, nam một bên, nữ một bên, vừa đi vừa hát, có nhạc họa theo. Hát thì bên này hát xong rồi đến bên kia, mà mỗi bên chỉ hát đi hát lại độc một câu.
Bên nam hát:
- Dịch dình dinh: anh có cái yếm lưỡi cày, anh chả để cho mày thì để cho ai.
Bên nữ hát:
- Dịch dình diêng: em có cái vò rượu tăm, em để anh uống anh nằm với em.
Cứ như thế mà hát mãi và đi cho đến nghè. Đến nghè, làm lễ cúng rồi người ta đổ ba mươi sáu cái ấy ra trên chiếu trải ở đất để cho dân làng tranh nhau cướp lấy. Họ tin rằng hễ ai cướp được cái sinh thực khi đàn ông thì năm ấy sẽ đẻ con trai, ai cướp được cái đàn bà thì sẽ đẻ con gái” (tr.262).
Lúc chưng cất, người ta lấy từ nước đầu, gọi là “rượu ngọn”, trong Nam còn gọi “rượu hàng nàm”; nước thứ nhì không ngon bằng, gọi “rượu bào”. Trong quá trình chưng cất, càng về sau, rượu càng lạt:
Giã quán nem, ai thèm rượu lạt
Rượu lạt hết rồi, người bạc hết thương
Tóm lại, các loại rượu này đều màu trắng. Với sự vật có màu trắng, khi nhà thơ Hàn Mặc Tử ngạc nhiên: “Áo em trắng quá nhìn không ra”, trong Nam gọi “trắng lốp”, đúng như cụ Đồ Chiểu có lúc: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp”. Với các loại rượu màu trắng, nếu có ngâm thêm gì đó mà ra màu, tùy trường hợp, người ta lại gọi “rượu thuốc” hay “rượu mùi”. Mùi là màu.