Những người phụ nữ thời lửa đạn
Chiến tranh đã lùi xa nửa thế kỷ, nhưng với tôi, cuộc đời của những người phụ nữ tôi đã gặp trong thời chiến vẫn để lại những dấu ấn sâu đậm trong những năm tháng làm phóng viên chiến trường.
1. Lâu nay, bức ảnh về người nữ du kích Gio Linh - liệt sĩ Thu Hồng đã rất quen thuộc với bạn đọc. Đấy là hình ảnh đẹp về một người con gái đã ngã xuống trên mảnh đất quê hương mình trong cuộc chiến đấu vì độc lập tự do. Đấy cũng là một trong những bức ảnh đầu tiên tôi chụp khi vào mặt trận Quảng Trị đầu năm 1972. Những di vật của Thu Hồng để lại còn có cuốn nhật ký với những trang viết cho thấy suy nghĩ, tâm tư của chị đến sát ngày hy sinh. Mùa Xuân năm 2024, trong chuyến trở lại chiến trường xưa sau hơn nửa thế kỷ, tôi mới có dịp cầm lại cuốn nhật ký ấy. Đó là một câu chuyện rất đặc biệt đối với tôi.
Khi chúng tôi đến nghĩa trang Dốc Miếu thăm mộ Thu Hồng, những cán bộ, chiến sĩ trong đội du kích Gio Mỹ, các đồng đội của chị đã có mặt. Bên mộ liệt sĩ Thu Hồng, cùng với những người thân và đồng đội của chị năm xưa, tôi đã đọc bài thơ “Tuổi hai mươi” viết về chị: “Em gửi lại tuổi hai mươi trên cát/ Cát trắng tinh khôi tự bao đời/ Mãi tươi trẻ đón từng cơn gió nhẹ/ Chạy lao xao như sóng khắp chân đồi”.
Trong cuộc gặp, tôi khá bất ngờ khi anh Nguyễn An Trung, em ruột liệt sĩ Thu Hồng, một cán bộ cao cấp trong ngành Công an, đưa ra hai cuốn số nhỏ và giới thiệu với mọi người:
- Đây là nhật ký của chị Thu Hồng. Sau khi chị hy sinh, các đồng đội của chị trong đội du kích Gio Mỹ đã trao cuốn nhật ký này cho nhà báo Trần Mai Hưởng, phóng viên Thông tấn xã Giải phóng, khi ấy đi chiến dịch qua đây, để chuyển cho ba má tôi. Anh Hưởng đã có lần nói về hai cuốn nhật ký này, nhưng do thất lạc, nay gia đình mới tìm lại được.
Trong khi Nguyễn An Trung kính cẩn đặt hai cuốn nhật ký lên mộ liệt sĩ Thu Hồng, tôi nhớ lại mọi chuyện. Lần ấy, trong những ngày đầu chiến dịch, tôi hành quân qua Gio Mỹ, rất bàng hoàng nghe tin Thu Hồng hy sinh trong trận đánh ở cầu Bến Ngự. Xã đội trưởng Nguyễn Văn Em khi đó đã trao hai cuốn nhật ký ấy cho tôi, nhờ tôi chuyển đến gia đình của Thu Hồng.
Về Vĩnh Linh, tôi đã nhờ các anh ở Khu ủy Vĩnh Linh chuyển cuốn nhật ký ấy cho ba má của Thu Hồng là bác Nguyễn Văn Thư, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Dân vận tỉnh Quảng Trị và bác Nguyễn Thị Toàn, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng tỉnh Quảng Trị. Sau này, khi có dịp gặp và hỏi chuyện thì chị Thu Lan, em liệt sĩ Thu Hồng, nói là gia đình không tìm thấy cuốn nhật ký đó. Rất may là gần đây, khi tìm lại những đồ đạc, tài liệu của gia đình lưu gửi ở nhiều nơi trong những năm chiến tranh, anh Nguyễn An Trung mới tìm thấy cuốn nhật ký ấy.
Tôi đã đọc những trang nhật ký được ghi từ khi Thu Hồng rời Trường học sinh miền Nam ở Đông Triều trở về tham gia công tác, chiến đấu tại quê hương Quảng Trị. Chị viết về những giây phút bên ba mẹ sau những năm xa cách và quyết tâm rèn luyện, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ: “Suốt ngày hôm nay được sống bên cạnh ba má, được ba má tâm sự và bày vẽ bao nhiêu chuyện sinh hoạt trong cuộc sống. Sao mà tình thương của ba má đối với mình có cái gì thiêng liêng và cao cả vô cùng. Suốt một buổi sáng ba má và mình đều soạn ba lô. Mình nhìn 3 cái mũ giải phóng và 3 cái thắt lưng… Thật là đáng tự hào! Trong lúc này, nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả nhất mà Tổ quốc gọi chúng ta là tất cả trẻ già, những người con yêu Tổ quốc hãy đứng lên cầm súng đánh Mỹ cứu nước…” (…) “Có thể nói đêm nay một niềm vui... Con đã khóc rất nhiều khi má nằm tâm sự với con. Trong lòng mình dậy lên một tình thương mãnh liệt. Thương ba má và 3 đứa em yêu quý của mình… Ba má kính yêu ơi. Con nguyện theo lời ba má, đem hết nghị lực của mình trong công tác... Con nguyện nốt gót theo truyền thống gia đình và những người thân đã mất, quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng…”.
Về tình cảm riêng tư còn nhiều e ấp với một người lính, Thu Hồng viết: “Sao mà mình mong và nhớ anh đến thế. Thật là mối tình đầu có gì rất đẹp và bí ẩn bên trong. Từ hôm xa nhau đến giờ, không lúc nào hình ảnh anh mờ đi trong tâm trí mình…”. Giữa những trang nhật ký, Thu Hồng ghi câu thơ của nhà thơ Nam Hà mà ngày ấy, thế hệ chúng tôi đều thuộc: “Đất nước của những người con gái con trai/ Đẹp như hoa hồng cứng hơn sắt thép/ Xa nhau không hề rơi nước mắt/ Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt…”.
Không xa những dòng thơ ấy là lời ghi ngắn của Thu Hồng về cuộc gặp của chúng tôi, khi tôi cùng nhà báo Phạm Tài Nguyên, hai phóng viên Thông tấn xã Giải phóng, về công tác ở Gio Mỹ, thời điểm mà tôi đã chụp bức ảnh Thu Hồng đang luyện tập chuẩn bị cho chiến dịch đang đến. Chị viết: “Hôm nay tập trung cao độ vào công việc. Gặp được hai anh nhà báo ở Hà Nội vào, tính vui vẻ dễ thương, có nhiều lúc nghiêm nghị, suy nghĩ…”.
Thời điểm Thu Hồng nhắc đến trong nhật ký ấy là sáng 25/2/1972 (ngày 11 tháng Giêng năm Nhâm Tý), một buổi sáng chan hòa ánh nắng trên thao trường của những người du kích xã Gio Mỹ, ngay bên dòng Bến Hải, cách căn cứ của quân đội Sài Gòn trên đồi 31 không xa. Đấy là những ngày căng thẳng, khẩn trương vì chiến dịch Tổng tiến công ở mặt trận Quảng Trị cũng như trên toàn chiến trường miền Nam đang đến gần.
Những dòng cuối cùng của cuốn nhật ký, Thu Hồng viết: “Đảng gọi con, Tổ quốc gọi con, con sẵn sàng có mặt! Con nguyện đi theo truyền thống của ba má, đem con tim và giọt máu của mình tô thắm màu cờ của Tổ quốc! Con sẽ thực hiện lời ba má dặn lúc chia tay. Con đã xác định rằng, nếu hạnh phúc dân tộc không có thì không có hạnh phúc gia đình. Tình yêu của chúng ta gắn liền với tình yêu dân tộc… Vì độc lập tự do của dân tộc, tôi nguyện ra đi chiến đấu đến hơi thở cuối cùng… Tôi vui sướng nhất là khi ngã xuống mà mọi người dân đều được hưởng tự do”. Và chị đã hy sinh trong trận đánh đồn Bến Ngự - Gio Linh ngay trong đêm 31/3/1972.
2. Mùa Xuân 2024, nhà báo Trần Mai Hạnh và tôi thực hiện một chuyến đi hai anh em mong đợi từ lâu. Đó là hành trình trở về ký ức một thời khói lửa nhiều hiểm nguy, thử thách; hành trình về với những vùng đất, những con người với nhiều gắn bó. Tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp thông tấn, báo chí trên suốt dọc đường chúng tôi qua; niềm vui gặp gỡ với những nhân chứng lịch sử đã có mặt trong các bài viết, hình ảnh của chúng tôi từ những năm tháng ấy. Những cuộc gặp gỡ ấm áp, tin cậy, ân tình, tăng thêm tình yêu cuộc sống và khơi dậy những dự định sáng tạo mới.
Chúng tôi đã qua Vĩ tuyến 17, cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, nơi đất nước bị cắt chia. Tôi nhớ hình cây cầu Hiền Lương xiêu vẹo và chơ vơ giữa dòng sông những năm tháng chiến tranh. Trong lòng cây cầu ấy có một vết sơn trắng hằn ngang. Đấy là ranh giới mỏng manh phân chia hai miền đất nước chúng ta, mà để xóa đi lằn ranh ấy, máu hàng triệu người đã đổ. Cầu Hiền Lương mới bắc qua sông Bến Hải giờ rộng và đẹp hơn nhiều, bên cạnh vẫn còn cây cầu cũ biểu tượng của một thời. Ngay trên cây cầu lịch sử, nơi giữa lòng vẫn còn vệt sơn trắng cách chia một thời, chúng tôi gặp lại những người quen cũ, trong đó có chị Hoàng Thị Chẩm, tức O Chẩm, theo cách gọi vùng này.
Hoàng Thị Chẩm là người du kích bắn tỉa nổi tiếng trên vành đai điện tử McNamara năm xưa. Chị là người tôi đã viết trong bài ký “Trên vành đai điện tử” quen thuộc với bạn đọc từ những năm tháng ấy. Từ khoảng cách cả ngàn mét, Chẩm có thể bắn gục một mục tiêu di động khiến cho lính địch ở Dốc Miếu đi ra ngoài luôn phải canh chừng, vì với tài bắn tỉa của mình, Chẩm đã hạ gục hàng chục tên lính địch ở Dốc Miếu. 20 tuổi, Chẩm đã có 6, 7 năm là du kích, từng là khẩu đội trưởng 12 ly 7. Năm 1972, sau đợt đầu của chiến dịch Tổng tiến công, tôi đã về xã Trung Hải, viết về cuộc sống của người dân ở đây sau giải phóng.
Tôi không bao giờ quên hình ảnh O Chẩm đưa tôi đi thăm vành đai ngày ấy, khi bà con Trung Hải từ khu tập trung trở về quê cũ, chuẩn bị cho vụ lúa mới trên đất đai còn không ít bom mìn. Chẩm có dáng vẻ đặc trưng của những phụ nữ vùng này. Nước da ngăm ngăm, dáng người thấp đậm, gương mặt dẫu sạm đen vì nắng gió và những cam go ác liệt của cuộc chiến nhưng vẫn có nét duyên thầm. Chẩm kể về những khó khăn của người bắn tỉa khi suốt ngày đêm phải bám trụ, tập trung theo dõi các mục tiêu, không kể thám báo, biệt kích hay bom pháo, bất chấp thời tiết nắng mưa, chẳng quản ngày đêm. Nhờ công lao khổ luyện, với khẩu súng trường chuyên dụng của Ba Lan, Chẩm trở thành một xạ thủ bắn tỉa lừng danh trên vành đai điện tử…
Có một câu chuyện Hoàng Thị Chẩm kể khi ấy làm tôi nhớ mãi. Gia đình Chẩm rất nghèo, chị phải đi ở cho một gia đình tại thị xã Đông Hà lúc còn nhỏ. Khi giải phóng Dốc Miếu bữa trước, Chẩm vào tiếp quản căn cứ ngay những giờ đầu tiên cùng bộ đội. Rất tình cờ, một thương binh ngụy còn ở trong căn cứ lại chính là con của gia đình mà chị đã từng đi ở tại Đông Hà năm nào. Hai người nhận ra nhau trong một tình huống hoàn toàn khác, cô người ở và con ông chủ, giờ một người đại diện lực lượng giải phóng, một người là tù binh. Hoàng Thị Chẩm kể, bữa đó, chị giúp băng bó và cho con của người chủ cũ đi điều trị theo chính sách nhân đạo của cách mạng.
Lần ấy, khi chia tay, Hoàng Thị Chẩm và các cô trong đội du kích còn tiễn chúng tôi ra tận đường quốc lộ, khi tôi xuôi về Hiền Lương thì các cô đi giúp dân dựng nhà ở phía bên kia đường để đến tối họ còn học văn hóa. Khói đốt đồng bay trên giới tuyến ì ầm tiếng pháo dội. Một luồng khói gần làm mắt cay cay. Chẩm hẹn lần sau quay lại và dặn dò tôi nhớ cẩn thận, giữ gìn. Tiếng các cô du kích trêu đùa còn vẳng lại khi tôi xốc ba lô cuốc bộ về phía bờ sông. Không muốn chờ đến tối, tôi lại bọc quần áo, đồ đạc vào bao nilông, chọn chỗ gần chân cầu để bơi sang. Cây cầu gãy nằm chơ vơ giữa dòng, nhưng cũng có thể làm chỗ nghỉ khi bị mệt hoặc đạn pháo bất ngờ chụp đến.
Sau hòa bình, Hoàng Thị Chẩm đã cùng gia đình, làng xóm xây dựng lại cuộc sống trên quê hương. Chị đã có một gia đình hạnh phúc, yên ấm, đông con cháu. Ngoài công việc đồng áng, chị còn trở thành người hộ sinh tình nguyện, giúp chăm sóc sức khỏe cho bà con trong vùng. Nhiều đứa trẻ ra đời trên mảnh đất từng là nơi đạn bom, chết chóc và chia ly này, dưới bàn tay của bà đỡ Hoàng Thị Chẩm. Chúng tôi đã về thăm ngôi nhà của chị ngay bên sông Hiền Lương một ngày cuối xuân năm 2024. Chồng chị đã mất mấy năm trước, 4 người con chị, 2 trai 2 gái đều có gia đình riêng yên ấm, người ra Đông Hà làm việc, người ở lại địa phương. Ở tuổi 75, chị vẫn sống trong ngôi nhà cũ, lo hương khói thờ phụng tổ tiên, chăm lo ruộng vườn, giúp đỡ cháu con và tham gia các hoạt động xã hội của địa phương.
Trong thời gian chiến tranh ở Quảng Trị, nhiều người phụ nữ khác tôi đã gặp cũng để lại những ấn tượng khó quên. Đó là chị Lê Thị Phiếu, người giao liên dũng cảm ngay trong những ngày chiến sự ác liệt nhất của năm 1972 đã đưa chúng tôi đi trên đoạn đường tử thần từ Gio Linh sang Cam Lộ. Chị Khuya, người con gái ở xã Triệu Trạch (huyện Triệu Phong) suốt 3 năm ở hầm bí mật, bám dân, bám cơ sở trong những ngày khủng bố ác liệt nhất. Gặp chúng tôi những ngày quê hương vừa giải phóng, chị cho biết, những ngày đầu chị phải ở trong nhà, mỗi ngày chỉ ra ngoài ít phút cho đôi mắt dần quen với ánh sáng mặt trời.
Tôi cũng nhớ mãi hình ảnh người nữ du kích Cửa Việt trong đêm tôi từ Triệu Phong trở lại hậu cứ ở Vĩnh Linh để kịp phát tin bài về Tổng xã. Đêm ấy, khi nghe tiếng súng hiệu gọi đò của tôi, cô đã một mình vượt qua sông rộng, trong tầm pháo của địch, đón tôi qua sông. Tôi đã viết về người nữ du kích không kịp biết tên ấy trong bài thơ “Chuyến đò đêm Cửa Việt”: “Nếu đêm ấy em không kịp đến/ Một mình anh đơn độc ở bến đò/ Pháo biển bắn dọc theo mép nước/ Mặt đất rền bom toạ độ gần xa/ Anh không biết điều gì sẽ tới/ Sức cạn rồi mình sẽ ra sao/ Gói lương khô chỉ còn là bụi cám/ Tan tác bay khi gió biển thổi vào…”.
3. Đà Nẵng ngày nay đã là một thành phố hiện đại, một đô thị đáng sống. Khi đi bộ dọc sông Hàn, tôi nhớ đến quang cảnh thành phố ngày đầu giải phóng với nhiều kỷ niệm đặc biệt. Chúng tôi vào thành phố khi tòa nhà Lãnh sự quán Mỹ còn đang bốc cháy. Cảng Đà Nẵng ngổn ngang xe cộ, vũ khí. Sân bay Đà Nẵng còn những máy bay không kịp cất cánh. Sở chỉ huy Quân đoàn 1 Sài Gòn của Trung tướng Ngô Quang Trưởng tan hoang… Tôi nhớ đến niềm vui, những gương mặt hồ hởi của người dân khi đón quân giải phóng. Tôi nhớ khi đứng trên cầu Trình Minh Thế (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi) ngắm những chiếc đò máy cắm cờ nửa đỏ nửa xanh rộn rã trên sông Hàn. Tôi nhớ đến kỷ niệm về chuyến đi xe máy cùng các nhà báo Lâm Hồng Long, Ngọc Đản, Hoàng Thiểm từ Huế vượt đèo Hải Vân hiểm trở để kịp có mặt sớm nhất ở thành phố lớn thứ hai miền Nam này…
Vào Đà Nẵng lần này, tôi có một cuộc gặp rất đặc biệt với một người phụ nữ, đó là chị Vĩnh An. Vĩnh An là nhân vật trong bài viết “Đà Nẵng ngày giải phóng” của tôi. Vĩnh An nguyên là học sinh Trường nữ trung học Đà Nẵng, ra chiến khu hoạt động. Vĩnh An trở về thành phố của mình với tư cách là một cán bộ trong Ban công tác tuyên truyền của thành phố. Khi nhóm phóng viên chúng tôi vào Đà Nẵng ngày giải phóng, Vĩnh An trong bộ quần áo ngày hội, quần đen, áo đen, măng-tô màu sữa đã đưa nhà báo Đinh Quang Thành đi chụp ảnh bằng chiếc Honda của gia đình cô… Vì thế, nhiều năm sau này, tôi vẫn muốn gặp lại nhân vật trong bài viết của mình nhưng không được vì đã bặt tin chị từ đó.
Thật may mắn, nhà báo Lê Phạm Trần Quý, phóng viên Cơ quan thường trú TTXVN tại Đà Nẵng, đã dành nhiều công sức giúp tôi tìm lại được chị Vĩnh An sau gần nửa thế kỷ. Cuộc gặp rất cảm động giữa chúng tôi diễn ra tại một quán cà phê ngay bên bờ sông Hàn. Sau giải phóng, Vĩnh An tiếp tục học đại học rồi ở lại trường làm giảng viên và có một gia đình yên ấm. Chồng chị là một cán bộ của Thành ủy Đà Nẵng. Cuộc gặp và trò chuyện rất cởi mở, thân tình của Vĩnh An với chúng tôi như những người thân quen sau gần nửa thế kỷ.
4. Tháng 4/1975, thật may mắn khi tôi cùng các đồng nghiệp trong “Tổ phóng viên mũi nhọn” của TTXVN kịp thời có mặt tại Phan Rang, khi “lá chắn thép” này bị đập tan. Tôi vẫn nhớ khi đi dọc theo đại lộ Thống Nhất đến Dinh tỉnh trưởng, khi đó đã là nơi làm việc của Ủy ban Quân quản… Một bức ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh rất lớn treo ở trung tâm thông tin gần đó. Những người vẽ đã phải làm việc khẩn trương suốt đêm qua để kịp hoàn thành bức tranh lớn này. Đứng gác trước trung tâm lúc đó là một cô gái cao gầy, mũ tai bèo mềm mại, mặc bộ đồ nâu sẫm, gương mặt rất nhẹ nhàng. Hỏi thăm thì biết cô tên là Trần Thị Sơn. Trước khi giải phóng 3 năm, Trần Thị Sơn còn là một cô thợ may nghèo, ở nhà số 10, đường Lê Lợi, tham gia hoạt động. Hôm nay Sơn trở về thị xã quê hương trong niềm vui mừng và cảm động của bạn bè, của bà con cô bác.
Trần Thị Sơn nói với chúng tôi: “Em gặp lại người quen, bạn bè. Ai cũng bất ngờ. Đối với riêng em, giờ phút quê hương giải phóng, giờ phút gặp gỡ cũng đột ngột quá. Ai cũng tin có một ngày, nhưng không ngờ lại là hôm nay...”. Sau khi lấy đủ tư liệu, từ Phan Rang tôi đi xe máy một mình về Nha Trang. Đường mới, cả trăm cây số, lại đi một mình ở vùng vừa giải phóng, khá nguy hiểm. Vì thế, ngoài súng ngắn, tôi mang theo cả khẩu carbin báng gấp lấy ở sân bay Thành Sơn. Về đến Nha Trang, ngay buổi trưa ấy, tôi ngồi viết bài về Phan Rang để chuyển về cùng với báo cáo tình hình của anh em trong tổ với Hà Nội…
Trở lại Phan Rang - Tháp Chàm sau gần nửa thế kỷ, may mắn nhờ sự giúp đỡ của anh em Văn phòng thường trú TTXVN tại Ninh Thuận nên tôi gặp lại cô tự vệ Trần Thị Sơn ngày ấy. Nữ chiến sĩ tự vệ Trần Thị Sơn từ khi quê hương giải phóng đã tham gia nhiều công tác, sau trở thành Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, rồi Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh. Trần Thị Sơn giờ sống cùng con cháu trong một ngôi nhà vườn ở ngoại ô thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Ở tuổi ngoài 70, chị đã nghỉ công tác nhưng vẫn nhiệt tình tham gia các hoạt động xã hội, chia sẻ, gắn kết cộng đồng qua các chương trình thiện nguyện…
Chúng tôi gặp lại chị Trần Thị Sơn sau 49 năm như những người anh em thân thiết. Chị rất cảm động khi tôi tặng lại bài báo về Phan Rang có nhắc đến hình ảnh của mình. Chị nói rất chân tình: “Em không thể ngờ là được gặp lại người phóng viên năm xưa, với món quà thật đặc biệt, không thể ngờ được cuộc đời mình có được may mắn, hạnh phúc như vậy”.
Mùa Xuân năm nay, tôi rất cảm động khi nhận được gói quà Tết, gồm cà phê nguyên chất và nước mắm cá cơm Cà Ná do chị Trần Thị Sơn gửi từ Phan Rang ra Hà Nội. Đối với tôi, món quà từ người du kích năm xưa mang đậm tình quê hương, sâu nặng tình người sau nhiều năm xa cách thật quý giá.