Nếp, tẽ, rẽ, bộng…
Thiệt tức cười, ngày xưa khi mừng đám cưới của đôi bạn trẻ, ông Thủ Thiệm - một “trạng cười” nổi tiếng ở Quảng Nam ưa nói lái, chỉ viết tuyệt đẹp như phượng múa rồng bay hai chữ: “Mèo đứng”. Mà trái nghĩa với đứng, đôi khi còn là nằm. Chẳng hạn, một đứa trẻ sinh ra đời, tía má/ cha mẹ/ thầy u nào cũng mong muốn nó lúc đến tuổi trưởng thành “Có đôi có đũa”- thành ngữ này nhằm chỉ về việc dựng vợ gả chồng. Vì lẽ đó, khi nói đến đũa đứng/ đũa nằm, ta còn hiểu ám chỉ về sự tréo ngoe, ngăn cách giữa chàng/ nàng; trai/ gái/ vợ/ chồng.
Đứng/ nằm là từ trái nghĩa. Không có thế, còn có đứng/ ngồi. “Khi khoan chửa chán thời khi nhặt/ Đánh đứng không thôi lại đánh ngồi” (Hồ Xuân Hương); hoặc “Con lợn khóc đứng khóc ngồi/ Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng”. Có thể nói, trong tiếng Việt, các từ trái nghĩa cực kỳ phong phú chẳng hạn, một khi nói về giới tính nói chung, ta có những “cặp đôi hoàn hảo” như nam / nữ; trai/ gái; đàn ông / đàn bà; trống / mái; đực / nái; đực / sề; đực / cái… Một người bảo: “Dạo này tớ thất nghiệp, chỉ bữa đực bữa cái cho qua ngày”, thì đực/ cái lại chỉ về bữa ăn mà bữa có/ bữa không, bữa đỏ lửa/ bữa treo niêu, bữa cơm nhà/ bữa cơm bụi...
Mà, trong cái sự ăn hàng ngày, đối với người Việt vẫn chọn “Cơm tẻ mẹ ruột”. Vậy, ta hãy quan sát trường hợp, khi chở người vợ mới cưới dạo phố, nhìn thấy câu khẩu hiệu: “Mỗi cặp vợ chồng hãy nên sinh đủ 2 con”, người chồng hớn hở: “Này mình, có nếp có tẻ thì nhà mình hạnh phúc lắm đây”. Thì nếp / tẻ lại hàm nghĩa chỉ con trai / con gái, thằng cu/ cái đĩ... “Có nếp mừng nếp, có tẻ mừng tẻ” là vậy. Nếu chỉ sinh con gái, lại có cách nói: “Chỉ rặt một lũ vịt giời / vịt trời”. Ở Huế, người ta còn dùng từ “tằm” (chỉ con trai) “bẹp” (chỉ con gái). Khi chứng kiến cảnh hạnh phúc này, biết đâu có ai kia thở dài não ruột:
Em đang vút nếp xôi xôi
Nghe anh có vợ thúng trôi nếp chìm
Tội nghiệp quá. Nhưng về ngữ nghĩa, à, câu này có gì khiến ta ngờ ngợ, phải nấu xôi thì mới chính xác chứ? Không. Cùng là hạt thóc “Có thóc mới bóc ra gạo” - dùng làm lương thực chính, muốn thế, phải trải qua những công đoạn như “Giã ơn cái cối cái chày/ Đêm khuya giã gạo có mày có tao”, “Ăn quả nhớ kẻ trẻ trồng cây/ Ăn gạo nhớ kẻ đâm xay giần sàng”.
Ông bà ta bảo: “Muốn ăn thì lăn vào bếp”. Với “gạo tẻ”, ta dùng từ “nấu” - một động tác hết sức quen thuộc diễn ra thường xuyên trong ngày: “Giàu một ngày ba bữa, khó đỏ lửa ba lần”. Tuy nhiên, ta vẫn còn nghe câu nói quen thuộc như thổi cơm/ thổi xôi. Sở dĩ như thế vì ngày xưa do nấu bằng củi, than, thông thường người ta đặt ống tre vào miệng bếp lò để thổi hơi vào đó cho lửa phừng lên, bởi thế có câu: “Đũa trui đũa bếp có đôi/ Cái ống thổi lửa mồ côi một mình”. “Thổi” nhằm chỉ động tác: “Chụm miệng mà phì hơi cho lửa cháy lên để làm chín các đồ ăn” - theo “Việt Nam tự điển” (1931). Nay, dẫu nấu bếp dầu lửa, bếp gas không cần dùng ống thổi nhưng ta vẫn dùng từ thổi cho thổi cơm/ thổi xôi. Rõ ràng, từ động tác “thổi”, còn hiểu là “nấu”, “Đại từ điển tiếng Việt:” (1999) đã ghi nhận.
Với tẻ/ gạo tẻ còn có đồng âm, thí dụ, “Tẻ vui cũng một kiếp người” (Truyện Kiều) thì tẻ trái ngược với vui là buồn tẻ/ tẻ nhạt/ tẻ ngắt/ nhạt nhẽo…
Với người Việt khi ăn, còn lựa chọn: “Khôn ăn cái, dại ăn nước” thì cái lại là vật đặc, ngon nhất trong thức ăn nước. Nước thì bao giờ cũng loãng/ lỏng, ngoại trừ lúc đông cứng do làm lạnh. “Dốt đặc hơn chữ lỏng” là ngụ ý chẳng thà (ai đó) “Dốt đặc cán mai” còn hơn chỉ mới i tờ, lõm bõm nhưng cứ lên mặt ta đây “trên thông thiên văn dưới tường địa lý” nhưng chẳng ra đâu vào đâu. Dù lỏng/ loãng đồng nghĩa tùy phương vùng miền nhưng “Lạt mềm buộc chặt” thì chặt trái nghĩa với lỏng, chứ không thể dùng loãng.
Loãng thường cặp kè với đặc. Một người vừa thưởng thức chén trà, nhận xét: “Trà móc cau à? Đặc quá”. Chén trà đặc ấy, với nước pha lần đầu đậm đặc, còn gọi nước cốt. Cũng nhúm trà ấy, càng về sau, nếu cứ châm thêm nước sôi vào, trà càng nhạt gọi nước dão - “thường nói về nước chè đã lợt rồi, hết mùi chè” - theo “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895). Từ dão vốn “đặc sản” của người miền Nam chăng?
Có điều lạ, từ điển ngoài Bắc như “Việt Nam tự điển” (1931), “Từ điển tiếng Việt” (1977) không ghi nhận từ dão. Thậm chí “Đại từ điển tiếng Việt” (1999) dão xếp chung với dạo - theo nghĩa dạo/ dạo mát/ đi dạo. Mà dạo cũng là rảo, chẳng hạn một cậu học trò kể: “Cơm nước xong, trời mát, tía tôi dẫn tôi rảo một vòng quanh xóm”. “Từ điển từ ngữ Nam Bộ”, Huỳnh Công Tín có nêu thí dụ về nghĩa thứ 2 của dão: “Nói mà không chịu dão tai ra mà nghe, rồi có khi làm lại làm bậy”. Thế thì, trong ngữ cảnh này, từ dão lại hàm nghĩa dỏng/ dóng, chẳng hạn, người bực bội: “Tớ nói lần chót nè, cậu dóng tai mà nghe cho rõ”. Nghe xong, người kia vẫn phùng mang trợn mắt, gân cổ cãi lại cho bằng được; người này càng bực bèn nửa đùa nửa thật: “Cậu chỉ cãi dóng là giỏi”. Cãi dóng là cãi ra làm sao?
Không chỉ đặc trái nghĩa với loãng mà tùy ngữ cảnh còn có thể là rỗng. Sau khi trò chuyện, gặp gỡ, một người nhận xét: “Ối dào, tay đó dốt đặc cán mai”, tức rất dốt. Cán mai thường được bằng loại cây đặc ruột, hoàn toàn không gì có thể chen/ chêm /nêm vào trong được nữa. Trái ngược với sự đặc ruột đó lại là rỗng. “Kìa ai lào lạo ngoài da/ Mà trong rỗng tuếch như hoa muống rừng”. Rỗng, rỗng tuếch rỗng toác, rỗng không, rỗng hoác là không có phần lõi, không có gì bên trong. Dù thế, có kẻ lại “Thùng rỗng kêu to”, nói nhiều nhưng chẳng có thực lực, khoác lác chẳng khác gì “Ba voi không được bát nước xáo”. Mà rỗng cũng đồng nghĩa với bộng. “Chà, hắn ta nói nhiều nhưng bộng ruột”, câu này, ngụ ý dù nói huyên thuyên nhưng trong bụng chẳng có chữ nghĩa gì; nhưng cũng hàm nghĩa bụng đói, chẳng có gì bỏ vào bụng.
Trở lại với câu ca dao: “Nghe anh có vợ thúng trôi nếp chìm”, nói tắt một lời đã “xong phim”. Tục ngữ có câu: “Gạo nấu thành cơm”, ngụ ý mọi việc đã xong, đã đâu vào đó, không còn có cợ hội thay đổi gì sất, chẳng khác gì “Ván đã đóng thuyền”. Sở dĩ xôi xuất hiện trong ngữ cảnh này bới lúc đãi đằng, đình đám theo thói tục vẫn thường có xôi. Muốn có xôi, gạo nếp phải xôi/ xôi xôi; còn có từ tương đương là đồ/ đồ xôi, hông/ hông xôi. Hông trong khoảng bao lâu? Ngày xưa khi ước lượng về thời gian, ở ngoài Bắc, nhà thơ Nguyễn Bính viết: “Láng giềng đã đỏ đèn đâu?/ Chờ em ăn dập miếng trầu, em sang”; trong Nam, lại nói “Chín hông xôi” là chỉ khoảng thời gian không lâu - theo “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895).
Xôi là từ đồng âm giữa động từ và danh từ, vì thế ta phân vân chút tẹo khi nghe câu “Em đang vút nếp xôi xôi” cũng phải thôi. Không những thế, ta hãy quan sát từ xôi trong một vài ngữ cảnh: “Mật xôi xuân sắc hoa ngàn đóa" (Hồng Đức quốc âm thi tập), “Sinh xôi nảy nở” (tục ngữ) - xôi lại có nghĩa là “dô ra, nở ra”- “Việt Nam tự điển” (1931) giải thích. Tuy nhiên với câu “Bờ xôi ruộng mật” lại không phải “dô ra, nở ra” mà chính là “xôi”, bởi có như thế mới xứng với “mật” trong phép đối xứng của cấu trúc câu tục ngữ. Xôi và mật là chỉ ruộng đất phì nhiêu, màu mỡ dễ cày cấy thu hoạch mùa vàng, năng suất cao.
Hẳn ai cũng biết, trước lúc thổi cơm/ thổi xôi thì dùng động tác “vo”, chẳng hạn, ca dao có câu: “Cảm ơn cái cọc cầu ao/ Đêm khuya vo gạo có tao có mày” là đổ gạo/ nếp vào rổ/ rá rồi dùng nước xát kỹ cho sạch. Vậy, tại sao ở đây lại là vút/ vút nếp? Về từ vút, ta nhớ đến câu câu thành ngữ “Mài nanh trổ vút”. Vút là móng của loài thú, thế nhưng từ điển hiện này đã ghi là vuốt.
Sự thay đổi này diễn ra từ lúc nào? Trong Nam, từ “Đại Nam quốc âm tự vị” (1895) đến “Việt Nam tự điển” (1970) của Lê Văn Đức còn ghi nhận “vút”; ngoài Bắc, “Việt Nam tự điển” (1931) có từ vút: “xem vuốt” nhưng đến “Việt Nam từ điển” (1977) chỉ ghi nhận “vuốt”. Câu thành ngữ “Mài nanh trổ vút” - hiểu theo nghĩa là quyết định ra tay làm dứt điểm một vụ việc nào đó, không chần chừ gì nữa.
Trở lại với câu “Em đang vút nếp xôi xôi”, thì vút/ vút nếp có nghĩa là vo / vo nếp là chà xát, đãi cho sạch, chứ làm cẩu thả ất ơ, không khéo: “Vì đâu nên nỗi chồng chê/ Cơm vo một nước, gạo dê một lần". “Dê”, có từ tương đương là “rê”, là đổ từng vốc gạo từ cao xuống thấp cho gió thổi trấu cám, chứ không vo cẩn thận. Nếu bạn về xứ Nghệ cũng nghe từ vút, thí dụ trong lúc lợp nhà, có người bảo: “Vút tranh lên mái nhà”. Vút này được hiểu là vất, vứt, ném, liệng…
Không chỉ có thế, thí dụ, cái áo đang mặc có chỗ bẩn, người ta dùng nước vò sạch chỗ ấy, chứ không phải giặt cả cái áo, ngày xưa dùng từ vút/ vút áo, Tuy nhiên, ngoài Bắc còn dùng từ “gột”, ở miền Trung và trong Nam gọi là “gụt”. Nói chi tiết thế này để thấy rằng, để hiểu tiếng Việt chắc chắn không thể không quan tâm đến phương ngữ vùng miền.