Đêm đêm rước bóng lên giường

Thứ Hai, 28/08/2023, 07:52

Một khi cảm nhận cách diễn đạt độc đáo trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, tôi luôn nghĩ rằng, lời ăn tiếng nói trong dân gian cực kỳ chắt lọc, đâu ra đó, không thiếu cũng không thừa mảy may từ nào trong một câu, chính vì thế mới dễ nhớ và có khả năng lưu truyền, truyền miệng dài lâu.

Vậy, khi các từ được sử dụng trong các câu nhịp nhàng có điệu, có vần thì sao? Thì dẫn tới trong tôi một suy nghĩ nghiêm túc: Nếu phân biệt “văn chương bình dân” và “văn chương bác học” như quan niệm lâu nay ắt có sự bất cập. Vì rằng, ta có thể chọn lấy nhiều/ rất nhiều câu ca dao, dân ca “bình dân” hoàn toàn có thể sánh với thơ ca “bác học”.

Đêm đêm rước bóng lên giường

   Ngọn đèn thấp thoáng nửa thương nửa sầu

“Bóng” trong ngữ cảnh này là gì?

Là cái hình ảnh của chính người đó do phản chiếu của ánh sáng, tựa như lúc thi sĩ Tản Đà ngồi trong phòng chong ngọn đèn và thấy: “Mập mờ khi thấp, khi cao/ Trông ra chẳng biết ông nào lại chơi”. Ông nào? Chẳng có ông nào, chỉ là cái bóng của chính mình: “Ta ngồi khi Bóng cũng ngồi/ Ta đi, ta đứng, Bóng thời cũng theo/ Có khi lên núi qua đèo/ Mình ta với Bóng leo trèo cùng nhau”, cuối cùng: “Còn ta, Bóng nỡ nào đi/ Ta đi, Bóng có ở chi cõi trần”. Có thể chọn lấy đây là một trong những bài thơ hay nhất của “ông thần ngông”. Một tứ thơ rất hiện đại.

Đêm đêm rước bóng lên giường  -0
“Lạ gì một cốt một đồng xưa nay”. Ảnh tư liệu

Thế nhưng, câu ca dao trên còn “siêu” hơn nữa, vì rằng, cái bóng ấy không là cái bóng của người thốt ra câu nói ấy. Điều này, ta có thể nhìn thấy qua từ “rước”. Thử hỏi cái bóng của mình hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào mình, thế thì sao lại phải rước? Vô lý quá. Rước/ đón rước là trang trọng, trân trọng đón về ai đó, vật gì đó một cách trọng thể theo lễ nghi như rước ông nghè về làng, rước dâu, rước kiệu… kia mà. Như vậy, “Đêm đêm rước bóng lên giường” - bóng ở đây không phải bóng của mình lại là nhân vật thứ hai nhưng không hề xuất hiện, chỉ là cái bóng do người rước nhìn thấy và nghĩ ra mà người ngoài cuộc thì không thể.

Trở lại với câu ca dao trên, có phải lập luận nêu trên đã chắc? Tất nhiên. Nhưng rồi biết đâu có người cãi rằng với từ rước trong ngữ cảnh của câu ca dao, hiểu như thế chắc gì đã đúng? Hãy đọc lại mẩu đối thoại trong tác phẩm “Nhà nho” (NXB Đồng Tháp - 1990) của Chu Thiên viết năm 1943: “Ông Hai Tín bưng cơi trầu ra mời Tuyết: Xin rước cô mời khẩu lộc thánh. Cô tươi cười từ chối: “Rước các cụ ạ, cháu không biết ăn trầu” (tr.47).

Ở đối thoại này, rước được xuất hiện với tư cách từ đồng âm hiểu theo nghĩa là mời. Mời ai đó một cách lễ phép, trân trọng, tôn kính, chẳng hạn, lúc Quan Án mời chị và vợ uống trà: “Rước chị ngồi uống chén nước đã; bà mày uống nước” (tr.80). Cùng là mời nhưng hai cách nói khác nhau: một cách nói là rước, một cách nói trống không. Cách mời trân trọng qua từ rước, ta còn có thể tìm thấy trong ca từ của Phạm Duy: “Rước em lên đồi cỏ hoang ngập lối”, và câu sau lặp lại cái ý này: “Mời em lên núi cao thanh bình”…

Nghĩa của từ rước, không chỉ có thế. Trong chừng mực nào đó, rước cũng có thể thay thế bằng từ chuốc, chẳng hạn, nhà thơ Cao Bá Quát viết: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy/ Cảnh phù du trông thấy đã nực cười/ Thôi công đâu chuốc lấy sự đời/ Tiêu khiển một vài chung lếu láo”.

Lúc nàng Kiều ở lầu xanh: “Đưa người cửa trước rước người cửa sau”; hoặc lúc Lục Vân Tiên bị nạn, sau khi nghe lão lang băm Triệu Ngang mách bảo, lập tức: “Tiểu đồng nghe nói đi liền/ Rước ông thầy bói đặt tiền mà coi” - trong những ngữ cảnh này, ta hiểu là đón.

Rõ ràng, từ rước này “nhiều sự” ra phết. Nếu đã có “rước bóng” ắt phải có “đổ bóng” chứ? Vậy, ta hiểu thế nào về câu tục ngữ “Thầy đổ cho bóng, bóng đổ cho thầy”? Ở đây là khi cùng làm việc gì đó mà thất bại thì người này dồn hết/ đổ hết trách nhiệm cho người khác như thể mình vô can. Chẳng lẽ trong ngữ cảnh này, thầy và bóng (của thầy) đổ lỗi cho nhau - như trường hợp “ta và bóng” trong bài thơ của Tản Đà? Có lý lắm, nhưng lại là… “cái lý không chân” nên không thể đứng vững. Vậy, trước hết cần phải hiểu nghĩa từ “bóng” trong câu tục ngữ, dễ quá, nếu ta nhớ đến câu thơ trong Truyện Kiều:

Đà đao lập sẵn chước dùng

Lạ gì một cốt một đồng xưa nay

Đà đao hiểu nôm na là trong cuộc giao chiến sống mái, một mất một còn, có kẻ ma lanh giả vờ “bỏ của chạy lấy người”, cái sự thua cuộc ấy khiến đối phương chắc mẩm tin thiệt vì còn nhìn thấy hắn ta kéo lết cái đao nên hăm hở đuổi theo sát gót. Nào ngờ kẻ tháo chạy đó bất ngờ quay lại chém cho một nhát bén ngọt.

Với từ bóng đang bàn, ta có thể nhìn thấy trong cụm từ “một đồng một cốt”/ “Lạ gì một cốt một đồng xưa nay”. Đồng và cốt cùng một phe, cùng một guộc, gọi chung đồng cốt - là những kẻ tự cho mình có thể giao tiếp với cõi âm quỷ thần trong đám cúng bái. Còn bóng, có “bóng cô”/ “bóng cậu” - hồn của trinh nữ/ trai tân nhập vào mà người đó biết chuyện quá khứ, tương lai lẫn phù hộ, ban phù phép cho kẻ khác. Dù đồng cốt hay bóng cốt thì phải “diễn” chung với thầy cúng/ thầy phù thủy một cách nhịp nhàng, “ăn rơ” nhau. Thế nhưng chẳng may bị “tổ trác”, “trật cù chìa” thì họ đổ lỗi cho nhau, “cãi nhau như mổ bò”, do đó, mới có câu “Thầy đổ cho bóng, bóng đổ cho thầy”.

Từ bóng này còn cực kỳ tinh quái ở chỗ khi nghe nhắc đến, chắc gì đã thuộc các nghĩa vừa nêu trên. Chẳng hạn, khi đọc câu thơ trong “Cung oán ngâm khúc”: “Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ”, ta hiểu lúc ấy vầng trăng đã nhú lên trên vòm trời là lúc nàng cung nữ nghĩ về sự nhanh chóng, vùn vụt của thời gian chẳng khác gì bóng câu/ bóng ngựa lướt qua mành. Thời gian qua nhanh, nhan sắc cũng tàn phai chóng vánh, tội nghiệp cho các cô trinh nữ bó mình trong cung cấm.

Như đã biết, “bóng nga” dùng chỉ mặt trăng nhưng cũng để chỉ người con gái có nhan sắc như Nguyễn Du viết:

Bóng nga thấp thoáng dưới mành

Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai

Là cái sự quyến luyến vấn vương của Sở Khanh chạm mặt Thúy Kiều. Nếu không dùng “bóng nga” theo nghĩa này, ta có thể thay từ gì khác nói chung nhằm chỉ về nhan sắc, sắc đẹp của mỗi người?

Củi tre dễ nấu chồng xấu dễ xài

Bậu ham chi bóng sắc, nó hành hài tấm thân

Nhưng đừng quên, “bóng sắc” còn hiểu là cái đẹp ấy, “tưởng dzậy mà không phải dzậy”, thoáng nhìn thấy “ngọt nước”, “ngon canh ngọt cơm” nhưng nhìn gần lại nhìn thấy khác. Nói tếu táo như cách nói ngỗ nghịch của “trẻ trâu” thời @ chính là: “Nhìn xa thì giống Thúy Kiều/ Nhìn gần mới biết người yêu Chí Phèo”. Éo le thiệt. Và, cũng thiệt éo le khi ta còn bắt gặp hàng loạt từ bóng như “đứng bóng” - chỉ giờ ngọ, đã nửa ngày; “xế bóng” - trời đã chiều; “tốt bóng/ có bóng”- chỉ vẻ lịch sự, tướng tá ngon lành; “xấu bóng” ắt nhan sắc… cực kỳ khiêm tốn! Không những thế, còn có “vẽ bóng”. Thì đây, người Việt mình có cách nói ngộ ghê, thí dụ:

Thật thà như thể lái trâu

Thương nhau như thể nàng dâu mẹ chồng

Ối dào, hai từ “thật thà” ấy, xét ra mỉa mai làm sao. Về lái trâu, hẳn chúng ta dễ dàng nhớ đến câu “Mua trâu vẽ bóng”. Ngày xưa, “con trâu là đầu cơ nghiệp”, một tài sản không nhỏ, phải có nó thì ước mơ “Nhà ngói, cây mít” mới đủ bộ, vì thế, khi mua trâu/ tậu trâu thì phải hết sức cẩn thận, chớ nên “Mua trâu vẽ bóng”, tức là mua qua hình ảnh, qua miêu tả của người bán chứ bản thân mình không sờ tận tay, nhìn tận mắt. Chỉ thoạt nghe miêu tả đã cả tin mà mua, có ngày… “bán thóc giống mà ăn”.

Khi ông bà ta sử dụng từ “bóng” trong trường hợp này, ta hiểu là hình ảnh  nào đó được tạo ra do ánh sáng chiếu vào nhưng ở đây lại không có con trâu nào, bóng chỉ là hình ảnh vu vơ do người nghe tưởng tượng ra. Từ bóng này, khác với bóng trong câu “Nói bóng nói gió” - là nói xa xa gần gần, không nói trực tiếp, nói ám chỉ mà hễ ai “có tật giật mình”, chứ không có chứng cứ rõ ràng để bắt bẽ; tuy nhiên lại giống ở chỗ là từ lời “bóng gió” đó, người nghe có thể mường tượng ra những gì từ suy nghĩ của mình.

Bây giờ, ta hãy quay lại với câu ca dao:

Đêm đêm rước bóng lên giường

Ngọn đèn thấp thoáng nửa thương nửa sầu

Dù hiểu theo nghĩa đón rước hoặc mời một cách trân trọng thì tự thân cách nói này đã phản ánh một sự độc đáo như đã khẳng định: bóng ở đây không phải cái bóng của người đó mà chính là cái bóng của nhân vật thứ hai, dù không xuất hiện. Thế mới biết nỗi tương tư ấy dịu vợi, chất ngất và sâu kín biết dường nào, do đó, dù nhìn ánh sáng tỏa ra từ một ngọn đèn nhưng lại thấy bằng hai tâm cảnh: “Ngọn đèn thấp thoáng nửa thương nửa sầu”.

Độc đáo là chỗ đó. Sáng tạo là chỗ đó.

Lê Minh Quốc
.
.