Hương của nỗi nhớ truyền đời

Thứ Sáu, 08/04/2016, 02:50
Là chuyên gia về máy ảnh, tôi không thể phục hồi được hết ảnh cũ trong album của gia đình đông con. Song mùi hương Hà thành, trong đó có hương hoa sữa và nhiều loài hoa, hương quà Hà Nội, hương da hương tóc của mẹ, của người yêu... thì đã khắc vào tâm não. 

1. Năm 1951, tôi chào đời tại Nhà hộ sinh 18 phố Quán Sứ. Bố tôi - Thẩm Hoàng Tín (1909-1990) đang làm Thị trưởng, đặt tên con út là Long với ý nghĩa trong từ “Thăng Long”, tên cũ của kinh thành. Lúc ở Việt Nam, tôi chỉ xa Hà Nội hai đợt. Lần đầu, năm 1968, tôi sang Từ Sơn học Đại học Thể dục Thể thao, chuyên khoa Điền kinh (4 năm). 

Năm 1972, tôi nhập ngũ, vào Quảng Trị, bộ đội Sư đoàn 304. Năm 1974, tôi được điều ra Hà Nội làm giáo viên Trường Thể dục Thể thao Quân đội, thuộc Cục Quân huấn, Bộ Tổng tham mưu. Phục viên năm 1980, tôi về Sở Thể dục Thể thao Hà Nội, phụ trách bộ môn Cờ vua cho đến khi sang Pháp định cư năm 1988.

Một đêm hè, thả bộ dọc con phố yên tĩnh ở ngoại ô Tây Nam Paris, một mùi thơm nhè nhẹ, dịu dàng, phảng phất và thân thuộc quá… Đúng rồi! Đúng mùi hoa sữa Hà Nội. Lạ lùng thật, không thể tin ở mình nữa. Tại sao lại có mùi hoa sữa ở Paris?

Mừng quá, vội thông báo cho bạn bè, người gật gù, người thì nghe tai này qua tai kia như nghe bản tin thời sự nhàm chán... Thôi, mỗi người một cảm xúc riêng, có sao đâu. Được ngửi mùi hoa sữa của Hà Nội tại Paris, ngay con phố mình ở, là một hạnh phúc lắm rồi!

Nhà tôi ở phố Luis Dardenne, 92170 Vanves, Paris. Cứ mỗi mùa hè đến, loài “hoa sữa” Paris mọc bên hàng rào, lại nở rợp trắng li ti suốt ba tháng 6, 7, 8. Đúng dịp vợ chồng Đoàn Khắc Thuận - Trần Kha sang Pháp thăm gia đình em trai (họa sĩ Trần Trọng Vũ và vợ là nhà văn Thuận), tôi đưa chị Kha (con gái thi sĩ Trần Dần) những bông hoa sữa này, chị xác nhận: đúng mùi hoa sữa Hà Nội! Mùi hương gợi hình, gợi tầng tầng ký ức về Hà Nội của tôi. Từ cửa sổ phòng tôi nhìn xuống đường là vườn hoa công cộng, làm tôi nôn nao về vườn hoa Cửa Nam trước nhà tôi thuở nào.

...Bố tôi bảo, nhà mình không có quê vì năm đời đã ở Hà Nội rồi. Vậy quê mình là Hà Nội.

Nhà tôi xưa ở phố Cửa Nam, bà ngoại ở phố Trần Hưng Đạo, cô bạn gái ở phố Hàm Long. Đạp xe chầm chậm qua những phố ấy vào tối mùa thu man mát, se lạnh của Hà Nội, dưới bóng đèn vàng mờ mờ và sương mù nhè nhẹ, mùi hoa sữa dịu dàng mà hơi hăng hắc... Biết bao nhiêu kỷ niệm từ tuổi ấu thơ đến trưởng thành đã gắn với mùi hoa sữa. Thế mà ở Paris lại được hít sâu mùi hoa sữa!?!

Vườn hoa phố nhỏ Louis Dardenne, Tây Nam Paris.

Hà Nội thay đổi rất nhiều, mình là người Hà Nội gốc mà ra ngoại thành là lạc đường. Năm 2013, một tối đến phố Hàng Quạt, nhà cô bạn học cũ, đèn đường tối mờ mờ, phải hỏi đường thì một giọng Nghệ An nặng chỉ dẫn rất tận tình nhưng không nghe rõ được. Mình tự nhủ, ngày xưa phố phường Hà Nội thuộc như lòng bàn tay.

Trở về Paris, không còn còi xe ầm ĩ, khói xăng nồng nặc và tiếng rao đêm nữa… Hương hoa sữa Hà Nội thì vẫn phảng phất, dịu dàng... và rất đỗi thân quen…

Cuộc đời tôi may mắn được sống hai nửa ở hai thành phố Thủ đô văn hiến trên ngàn năm tuổi. Tôi chẳng thể chụp hết được mọi vẻ đẹp của Paris và Hà Nội. Và tôi tin, không nhà nhiếp ảnh tài ba nào trên thế giới chụp hết, chụp lại được ký ức. Bởi đâu phải tất cả đều hiện ra, hiện lại. Nhớ quá ngôi nhà xưa ở 11-13 phố Cửa Nam. 

Hiệu thuốc Cửa Nam của gia đình tôi ở số 5-7 Cửa Nam, còn có phòng thí nghiệm - bào chế lớn và một cửa hàng thuốc Tây nữa ở đường Đồng Khánh (nay là phố Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm). Từ lâu, Nhà nước đã trưng dụng, vẫn mở bán thuốc - hiệu thuốc Cửa Nam mang tên 8-3 (Tám tháng Ba, có vẻ đầy tinh thần ưu tiên phụ nữ). Mỗi lần qua đó, tôi lại thấy như thấp thoáng hình ảnh bố mẹ.

Bố tôi - Dược sĩ Thẩm Hoàng Tín du học ở Pháp về đã mở hiệu thuốc này. Mẹ tôi, dược sĩ Phạm Thị Thành (1921-1969), quản lý và làm việc tại đây. Tôi là con chung duy nhất của bố mẹ, con út của hai người. 

Hiện ở Hà Nội chỉ còn anh ruột tôi - Thẩm Vũ Can (1941), từng công tác tại Vụ Mẫu giáo, Bộ Giáo dục, sống ở số 3, phố Phan Đình Phùng. Anh Thẩm Võ Hoàng (SN 1935), nhà quay phim tài liệu đang sống tại Pháp. 

Anh sang Pháp từ 1950, học quay phim rồi trở về tham gia điện ảnh Việt Nam từ ngày đầu, công tác tại Xưởng Phim truyện Việt Nam. Anh là quay phim, cùng đạo diễn Đặng Nhật Minh tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh từ đầu tháng 4/1975 đến khi tiếp quản Dinh Độc lập. Tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ VI tổ chức vào năm 1977 tại TP Hồ Chí Minh, phim Tháng 5 - Những gương mặt ra đời sau chuyến đi ấy, nhận Giải Bông Sen Bạc. 

Kỷ niệm vô giá của anh em tôi: Năm 1970, tôi tham gia đoàn làm phim Luống khoai xanh, cảnh quay dưới chân núi Tam Đảo (Vĩnh Phúc) tôi vào vai nhỏ: lính liên lạc tên Hải, chị Thụy Vân đóng vai chính - chính trị viên, anh Thẩm Võ Hoàng quay phim, hoạ sĩ Vi Ngọc Linh thiết kế mỹ thuật, đạo diễn Bắc Xuyên. Đây là phim cuối cùng của Bắc Xuyên. Anh du học ở Liên Xô về, vì chuyện đấu đá trong cơ quan mà anh chán nản lao vào ôtô. 

Người nghệ sĩ thật là nhạy cảm và mong manh, tước bỏ sự sống của mình chỉ bởi ức chế không được làm nghề như ý, sau bao hy vọng, dự định tuổi trẻ. Phim huy động 200 học viên Trường Đại học Quân sự gần đó đóng bộ đội. Hai năm sau, tôi thành bộ đội thật, chàng trai Hà Nội xông pha ở mặt trận ác liệt nhất. 

Sau anh Hoàng là anh Thẩm Vũ Tùng (1939-2000), con nhà trí thức khá giả mà xung phong lên Tây Bắc xây dựng nông trường và làm công nhân ở đây những năm tuổi trẻ. Dòng họ Thẩm nhà tôi cũng có đóng góp cho điện ảnh bằng kỷ niệm nhỏ này. Sau 1954, chú ruột tôi - nhạc sĩ Thẩm Oánh (tác giả Tôi bán đường tơ) đã khuyên thiếu nữ Nguyễn Minh Phụng (SN 1940) đang học nghệ thuật hãy theo học điện ảnh, cô nghe theo và thành công. Cô đã lấy nghệ danh Thẩm Thuý Hằng để tri ân nhạc sĩ đã cho lời khuyên tuyệt vời.

Chị thứ hai tôi - Thẩm Đôn Thư, 84 tuổi sống ở Cachan, Paris nhiều năm, nay đang ở Hamburg, Đức, với con trai, chị đã yếu sau mấy lần cấp cứu. Đến như nhạc sĩ Nguyên Lê (Lê Thành Nguyên, SN 1959), cháu gọi tôi là cậu ruột, bố mẹ là người Việt, sinh ở Pháp, không nói được tiếng Việt, dù vẫn gặp họ hàng, về nước và vẫn biểu diễn cho cộng đồng trong và ngoài nước.

Từ phải sang trái (hàng đầu): Thẩm Đôn Thư, Thẩm Vũ Can, Lê Thị Thành (vợ của Thẩm Võ Hoàng). Hàng sau: Nhạc sĩ Văn Cao, Trịnh Công Sơn, Thẩm Hoàng Long ôm vai nhạc sĩ Trần Long Ẩn,  họa sĩ Bùi Xuân Phái.

Khán giả Việt Nam biết đến anh là biết đến cháu Lê Thành Nguyên, với tư cách nhạc sĩ phối khí, làm mới cho ca khúc Chiếc khăn Piêu của nhạc sĩ Doãn Nho, giải Bài hát của năm, giải thưởng âm nhạc Cống hiến lần thứ 8, 24/4/2013 tại TP. Hồ Chí Minh, khởi đầu hợp tác thành công với ca sĩ Tùng Dương. (Tiếp sau, họ làm liveshow “Độc đạo” ngày 24/11/2013 tại Cung Văn hoá Hữu nghị Việt - Xô Hà Nội). GS. Lê Thành Khôi (1923), học giả có mấy bằng tiến sĩ từ kinh tế đến luật học đến văn chương, lấy chị gái cả tôi Thẩm Thị Hồng Anh (1930). 

Anh chị đều sinh trưởng ở Hà Nội phố cổ, định cư ở quận 15 Paris, với tình quê hương, đã dành tài sản lớn về tinh thần và vật chất: tặng hơn 330 tượng, đồ gốm sứ cổ sưu tập khắp thế giới cho Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Tháng 10/2015, tôi gặp Nguyên Lê tại bảo tàng này khi cháu thay mặt bố tặng bộ sưu tập.

2. Tôi thăm anh Hoàng đầu tháng 3 này. Định cư ở quận 13 Paris từ 1983, nay anh tôi đã yếu, nhớ mà chẳng thể về dự ngày hội Điện ảnh Việt Nam 15-3, trở lại cơ quan cũ. Mỗi lần về, mỗi lần gặp lại, ai trong chúng ta chẳng vơi đi bạn bè, người quen biết.

Mùa Đông Paris không có tuyết, cái lạnh càng làm tôi nhớ đến mùa Đông Hà Nội, tuy Hà Nội chẳng khi nào xuống âm 2°C - âm 5°C. Mỗi khi nhìn những cây cầu nhỏ, đều làm tôi liên tưởng tới cầu Thê Húc, dù hình dáng và chất liệu không giống nhau.

Đã 64 năm, kể từ khi cầu Thê Húc bị sập. Do nhân dân du Xuân Tết Nhâm Thìn 1952 vãn cảnh quá đông, chen lấn trên cầu gỗ không lan can, Thị trưởng Thẩm Hoàng Tín đã cho phá bỏ cầu cũ, xây cầu mới. Để tìm thiết kế đẹp, ông Tín tổ chức cuộc thi thiết kế mẫu. 

Hơn 30 mẫu của các kiến trúc sư Pháp - Việt tham gia, mẫu của KTS Nguyễn Ngọc Diệm được chọn. Dầm ngang, dầm dọc, mặt và thành cầu đều làm bằng gỗ. Thiết kế cong để cầu khỏe hơn, nổi hơn, vẫn giữ lại dáng cong cầu vồng xưa, giữ nguyên 16 hàng cọc tròn, các đầu trụ vuốt nhọn hơn, nhằm gợi nhớ chiến thắng quân Nam Hán của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng năm 938. Bố tôi đã ban hành Quy chế đặt tên phố Hà Nội giai đoạn trước 1954. 

Nhưng năm 1979, ông lại phải xa Hà Nội để sang Pháp chữa bệnh tim, dưỡng già và qua đời tại đây. Hiện tro cốt cha tôi yên nghỉ tại Trúc Lâm thiền viện, nơi một số trí thức cùng thời nằm lại đó như học giả Hoàng Xuân Hãn...

Hơn 50 năm sau khi ông nội cho xây lại cầu Thê Húc, cháu nội Thẩm Yến Linh - con gái cả của tôi về Hà Nội năm 2015 để thực hiện luận án Tiến sĩ Kiến trúc sư bằng dự án cải tạo, thiết kế bãi cát giữa sông Hồng vào năm 2030-2040 và trở về viết tại Pháp. 

Ba đứa con tôi mang quốc tịch Pháp, song luôn tự hào là người Hà Nội, nói chuyện với bố mẹ bằng tiếng Việt. Con gái đầu Thẩm Yến Linh (SN 1989 tại Hà Nội) sang Pháp năm 2 tuổi, vẫn nói tốt tiếng Việt. Con trai Thẩm Hoàng Việt (1995) đang là sinh viên Đại học Paris 1; con gái út Thẩm Mỹ Linh (1997) – sinh viên Đại học Luật Paris.

Các đời lãnh đạo thành phố đã làm thay đổi Hà Nội. Thủ đô bây giờ to, rộng mà không còn vẻ đẹp nên thơ thanh lịch như xưa. Không phải bởi là thân phụ mà tôi ngợi ca: như bố tôi, một người Tây học, cả đời giữ phong thái lịch lãm, tinh tế, mặc đúng mốt và ăn uống tinh sành, ưa giao du với các nghệ sĩ, trí thức, chính trị gia, đã truyền thụ cho chúng tôi tư duy về cái đẹp và giữ cho Hà Nội đẹp từ cách nói năng đi đứng ăn mặc đến phong cảnh không gian.

Là chuyên gia về máy ảnh Nikon, Pentax, Fusy, tôi không thể phục hồi được hết ảnh cũ trong album của gia đình đông con, 4 chị em ở Pháp. Song mùi hương Hà thành, trong đó có hương hoa sữa và nhiều loài hoa, hương cây, hương cốm, hương những thức quà Hà Nội, hương da hương tóc của mẹ, của người yêu... thì luôn thường trực, đã khắc vào tâm não. 

Đấy là hương của đất thiêng, của ký ức khi tôi còn đủ những người thân và những năm tuổi trẻ. Hương ấy sẽ được lưu nguyên trên đất Pháp, qua các con tôi. Cho những cuộc trở về.

Thẩm Hoàng Long (Paris)
.
.