Nhà thơ Trần Huyền Trân: Thơ tôi là trái không mùa không tên
Hồi 1954, gia đình tôi dọn về con ngõ nhỏ thuộc số nhà 111 Khâm Thiên. Tôi hay được cô Thảo bán bánh nếp đọc thơ Trần Huyền Trân (1913-1989). Cô kể ông Trân ở khu Cống Trắng từ cái đận các nhà hát cô đầu còn nỉ non suốt đêm cơ. Nghe mãi tôi cũng thuộc mấy câu: "Tôi ở lều gianh Cống Trắng này/ Chạnh lòng cá nhảy với chim bay/ Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức/ Giăng phải hồn tôi một lưới đầy" (Mưa đêm lầu vó-1938).
Đời tôi là chuyến tàu đi không người
Phải nói thơ Trần Huyền Trân có mối lương duyên kỳ lạ với những cô gái lỡ làng sầu muộn. Sống trong con phố ngập ngụa những số phận đào tơ thanh liễu nên nhà thơ luôn chia sẻ sự cảm thông. Ông đồng hành với những cô gái lạc loài giữa chốn kinh thành: "Đâu biết anh là gió bốn phương/ Mà em là cát bụi trên đường/ Tình đời xe ngựa muôn ngàn lối/ Còn cả tình ta với tiếng đàn" (Lạc loài-1938). Hoặc chàng thi sĩ luôn mộng mị ấy từng nhiều đêm khóc thầm: "Đàn em một tiếng tơ đồng/ Có nàng Tô Thị trong lòng tiếng tơ…Tưởng đâu một kiếp hoa rơi/ Lòng gieo tâm sự trên mười ngón tay" (Tiếng đàn đôi ta-1938). Tại nơi phồn hoa này nhà thơ hòa chung tiếng đàn, lời ca cùng ca nương Quách Thị Hồ với nỗi "Sầu chung". Ông cất lên lời ca: "Tự cổ sầu chung kiếp xướng ca/ Mênh mang trời đất vẫn không nhà/ Người ơi! Mưa đấy hay xênh phách/ Tay yếu gieo lòng xuống chiếu hoa" (Tặng Quách Thị Hồ-1942).
Chính nỗi lòng "Sầu chung" ấy chàng thi sĩ thường ngồi hàng đêm im lặng bên lều vó của mẹ bên đầm Liên Hoa. Ông tự đánh phách giữ nhịp với lời ca: "Lòng tôi em hỏi làm chi?/ Lòng như rồ dại vui gì nữa đâu/ Đò đầy thương nhớ dòng sâu/ Mái chèo lận đận chở sầu lênh đênh" (Những cánh thơ vàng). Rồi trong một đêm mưa gió ấy có người con gái bất ngờ xuất hiện. Chàng ngỡ ngàng chưa kịp nói gì thì cô gái kêu lên đau đớn. Lều vó của mẹ chàng một thuở "Mưa bay trắng lá rau tần/ Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa" bỗng dưng "Có người về khép song thưa/ Để rêu ngõ trúc tương tư lá vàng" (Thu-1938). Lúc này chàng nửa tỉnh nửa mơ chạy ra thấy cô gái ngã gục bên vệ cỏ. Chàng gọi mẹ cùng đưa cô gái vào lều vó chăm sóc. Cô gái đã có thai và bị ông chủ đuổi ra đường trong đêm mưa gió tơi bời trên phố vắng.
Sau đó ít ngày cô gái trở dạ. Chàng cùng mẹ cưu mang và lo đỡ đẻ cho cô gái. Lều vó đã ra đời một sinh linh. Nó gào khóc cùng đàn cá quẫy trắng xóa trong đêm mưa. Chàng không ngần ngại đứng ra làm cha khai sinh cho đứa trẻ. Nỗi bồi hồi trong trái tim chàng thổn thức cảm thông cho số phận người mẹ. Tên người mẹ là Trần Nguyệt Hiền cùng họ với chàng là Trần Đình Kim. Thật bất ngờ một tia nắng mai rọi chiếu trong mái lá đơn sơ chàng liền đặt tên cho đứa bé gái là Trân, chữ ghép dấu Huyền thành họ Trần. Chính vì thế tên bé gái là Trần Huyền Trân. Cũng từ đó chàng lấy tên này làm bút danh của mình.
Hội Tam Anh - Áo bào gốc liễu
Những năm tháng Trần Huyền Trân sống ở Cống Trắng, Khâm Thiên còn có nhiều nhà văn, nhà thơ đến tá túc. Đặc biệt là thi sĩ Nguyễn Bính và Thâm Tâm. Họ đến với nhà thơ từ năm 1936 và kết tụ thành nhóm thơ Tam Anh ở gác Sơn Nam. Nơi hội tụ tại ngõ Sơn Nam một thuở bên cạnh ngõ Văn Chương. Đây là những thi sĩ cùng đồng điệu và tạo nên một trường phái thơ đậm yếu tố thị dân lãng mạn. Hồi này đã hình thành phong trào thơ mới qua những cái tên tân thời (được coi là Tây học) như Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử…Nhóm thơ gác Sơn Nam của Tam Anh được ví hình ảnh "Áo bào gốc liễu" (chữ của Tô Hoài). Họ bị chê là cổ hủ với "Nhặt đi em cánh thơ vàng đang rơi" và còn tự ví von rằng: "Thơ người là trái chín vừa/ Thơ tôi là trái không mùa không tên" (Những cánh thơ vàng). Nhưng nhóm Tam Anh bất ngờ tạo nên cặp bài trùng thu hút bạn đọc thị dân cùng với giới nữ yếu liễu đào tơ đến mê mẩn.
Trong khi thi sĩ Nguyễn Bính luôn đắm đuối với "Nước giếng thơi" và sầu buồn cũng "Lỡ bước sang ngang"; Hay Thâm Tâm nhẫn nại cùng những nỗi niềm thi ca trầm luân "Tống biệt hành", "Mầu máu Ti Gôn", "Vọng nhân hành"; Thì Trần Huyền Trân lại trao gửi tấm lòng với những thân phận tha hương lận đận. Ông luôn yêu thương họ: "Mai đây sẽ thắm mặt trời/ Trong bùn sẽ thắm một người như sen/ Em ơi! Dâu biển một phen/ Cái thơm, cái ngọt sẽ lên lá cành". Hoặc nhà thơ cùng hòa tan trong nỗi niềm nhớ thương cùng người: "Thuyền hồn chở một khoang không/ Bao lâu dạt sóng trên dòng cô đơn/ Kinh thành mây đỏ như son/ Cái lồng eo hẹp giam con chim trời" (Thưa bà-Gửi một bà yêu thơ-1938). Thơ ông ngày càng đẫm tình và tràn đầy hy vọng.
Từ những nỗi niềm hướng ngoại nhà thơ Trần Huyền Trân đã nhập thần đưa thơ gắn liền với những khát vọng. Câu chuyện ngỡ như huyền thoại về cô gái bên vó bè ngày nào luôn day dứt tâm hồn ông. Từ đó nhà thơ đã viết bài "Cái thai hoang" để chia sẻ và tỏ thái độ phản kháng với cuộc sống bị hai tròng áp bức Nhật và Pháp. Khi đó "Cái thai hoang" biểu tượng cho người con đất Việt được sinh ra bởi sự áp bức khốc liệt của giặc xâm lược. Nhà thơ đã viết trong cơn bi phẫn: "Con sẽ ra đời, con của ai/ Ngoài này đang lắm bước chông gai/ Gì nuôi con đói lòng dao cắt/ Gì đắp cho cơn rét buốt giời?". Nhưng cuối cùng ông đã chào đón cái thai hoang ấy "Con cứ tìm ta con với cha". Cùng với đó nhà thơ nuôi dưỡng một tình yêu bao la: "Rồi lớn lên con! Mở mắt nhìn/ Khóc cùng bách tính sống như đêm/ Nhưng không! Đứng khóc! Thân gân cốt/ Ta bậc thang đời/ Con giẫm lên" (Cái thai hoang-1942).
Năm 1942 chính là năm quyết định của Hội Tam Anh khi họ cùng tham gia kháng chiến và hoạt động nội thành. Gác vó lều tranh của nhà thơ đã trở thành một địa chỉ liên lạc của những chiến sĩ cách mạng. Một thời đồng chí Lê Quang Đạo, Bí thư Thành ủy, đã đến trú tạm tại đây. Một không khí náo nức chuẩn bị cho cuộc Cách mạng tháng Tám thành công. Bởi thế thơ Trần Huyền Trân từ những năm 1939 đã có những chuyển động khác biệt ngay trong Hội Tam Anh: "Thuở ấy ra quân lớp lớp dài/ Mẹ già phẩy áo hẹn tương lai/ Lòng con nặng giục mầm hoa lửa/ Gió bốn phương lùa lộng chí trai" (Lòng chiến sĩ-1939). Nhà thơ đã từng nổi tiếng với bài "Với Tản Đà uống rượu" trong nỗi buồn man mác: "Cụ hâm rượu nữa đi thôi/ Be này chừng sắp hết rồi còn đâu/ Rồi lên ta uống với nhau/ Rót đau lòng ấy vào đau lòng này" (1938). Nhưng sau đó, cũng với rượu, nhà thơ đã thể hiện sự ngột ngạt bức xúc trong cơn đau số phận của đất nước: "Chiều nay nhắc chén lên môi/ Không dưng tưởng nhấp máu người tanh tanh/ Khóc nhau ném chén tan tành/ Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ" (Độc hành ca-1940). Cách mạng bùng nổ khi giặc Pháp quay lại xâm lược nước ta (1946). Thâm Tâm xung phong vào quân ngũ chiến đấu. Nguyễn Bính đi chiến trường miền Nam. Trần Huyền Trân cùng vợ lên Việt Bắc tham gia kháng chiến.
Ngôi nhà bên đầm rau muống
Tôi tìm đến gia đình cố thi sĩ Trần Huyền Trân tại phố Trần Quang Diệu (phường Ô Chợ Dừa-Đống Đa-Hà Nội). Nghe nói ông ở đây từ năm 1957. Ngôi nhà nằm bên một hồ rau muống xưa rộng mênh mông. Hiện hồ rau đã trở thành công viên có nhiều cây rậm rạp xanh mát. Thầy giáo Trần Kim Hằng là con trai của nhà thơ Trần Huyền Trân tiếp tôi tại phòng lưu niệm về ông.
Thầy Hằng kể, khi lên Việt Bắc tham gia kháng chiến, nhà thơ Trần Huyền Trân hoạt động sân khấu là chính. Hòa bình lập lại nhà thơ đã cùng những nghệ sĩ chèo nổi tiếng ở Hà Nội thành lập đoàn chèo Cổ Phong (1955). Sự nghiệp thơ Trần Huyền Trân được mở rộng và phát huy sâu sắc qua những vở chèo, kịch thơ mà ông biên soạn và đạo diễn. Đến nay nhiều người còn nhớ tới bộ ba tác phẩm chèo cổ đỉnh cao do Trần Huyền Trân sưu tầm, cải biên và chỉnh lý gồm "Quan âm Thị Kính", "Vân dại" và "Trương Viên".
Sau này khi về làm Trưởng đoàn chèo Hà Nội, nhà thơ Trần Huyền Trân còn lừng danh qua các vở "Tú Uyên Giáng Kiều" (tác giả kiêm đạo diễn) và "Ni cô Đàm Vân" (chuyển thể và đạo diễn). Tập thơ đầu tiên "Rau tần" (1986) cùng với hai tiểu thuyết của Trần Huyền Trân (in năm 1940) đã được trao giải thưởng Nhà nước năm 2007. Chung quanh phòng lưu niệm dày đặc những tư liệu hoạt động nghệ thuật của nhà thơ Trần Huyền Trân. Đặc biệt những lưu bút của ông đã chép lại những bài thơ nổi tiếng một thời. Chữ ông thật bay với những câu thơ mà nhiều người đã từng si mê: "Rót đi, rót rót đi thôi!/ Rót cho tôi cả mấy mươi tuổi đầu/ Nguồn đau cứ rót cho nhau/ Lời say sưa mới là câu chân tình" (Uống rượu với Tản Đà).