Nguyễn Trí Huân, nhà văn của những trang viết buồn thời hậu chiến
Nguyễn Trí Huân là một trong những nhà văn viết không nhiều, và cả đời ông cũng chỉ viết duy nhất về cuộc chiến tranh chống Mỹ cùng những dư chấn thời hậu chiến của nó: âm ỉ, dai dẳng, đau đến thấu tâm can. Ông là tác giả của tập truyện ngắn “Mặt cát” (1977), các tiểu thuyết “Năm 1975 họ đã sống như thế” (1979), “Dòng sông của Xô Nét” (1980), “Chim én bay” (1988), tập ký “Dấu thời gian” (2004), và hai truyện vừa, in trong tập truyện “Bất chợt mai vàng” (2023). Văn của Nguyễn Trí Huân không lẫn với bất cứ ai: đôn hậu và buồn, buồn tới độ thành đau buồn mà vẫn cứ không thôi đôn hậu.
1. “Chim én bay” là câu chuyện được kể từ ngôi thứ ba, qua điểm nhìn duy nhất là nhân vật Quy, người phụ nữ vừa tham gia chiến tranh trong vai một thành viên ưu tú của đội “Chim én” – đội du kích thiếu niên ở một huyện thuộc khu V, chuyên ám sát những tên ác ôn, phản bội, chỉ điểm trong vùng – vừa là một nạn nhân đau thương của chiến tranh: mẹ Quy bị chết vì một quả pháo hạm bắn vu vơ từ ngoài biển; sau đó lần lượt anh trai, chị gái, rồi cha Quy bị bọn ác ôn bắt bớ, tra tấn đến chết.
Bản thân chị cũng từng bị chúng bắt, tra tấn, cưỡng hiếp, tù đày. Giải phóng, Quy được trên cho đi Liên Xô học, được đào tạo để trở thành đại biểu Quốc hội và là một trong những lãnh đạo quan trọng của địa phương. Cuối cùng chị qua đời vì di chứng chiến tranh, trong cô độc, không gia đình, chồng con…

Cốt truyện là thế, nhưng tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân không phải chỉ là tiếng kêu thương cho cuộc đời và số phận của người phụ nữ một khi họ bị cuốn vào dòng xoáy chiến tranh – dù ở đó họ trở thành “anh hùng nữ” đi chăng nữa – mà hơn thế, qua những nỗi đau mất mát, qua bản năng tạo sinh và bảo tồn sự sống của người phụ nữ, nhà văn muốn nghĩ nhiều thêm, nghĩ sâu hơn về sức mạnh hủy diệt của chiến tranh trên thân xác và trong tâm não con người. Chiến tranh, với đầy sự ngẫu nhiên định mệnh của nó, đã tạo ra thế đối đầu sinh tử giữa ta và địch. Kẻ địch/ bọn ác ôn đã buộc Quy, một đứa bé gái tuổi chưa đến 15, đã phải cầm lấy cây súng để làm công việc diệt ác, một cách hoàn toàn tự nguyện, đầy ý thức, “mặc dù mỗi lần diệt một tên ác ôn trở về, chị đều đờ đẫn, cảm thấy day dứt, một sự day dứt không lý lẽ nào có thể xoa dịu”.
Quy là một người phụ nữ có lương tri bình thường, không bị biến thành cái gì cả bất chấp mọi chà xát khủng khiếp của hoàn cảnh chiến tranh, chính vì thế chị mới cảm thấy “một sự day dứt không lý lẽ nào có thể xoa dịu” sau mỗi lần diệt ác trở về. Cũng chính vì thế khi chiến tranh chấm dứt, lúc biết chuyện có người bên này đòi nợ máu kẻ nào đó bên kia, chị - hay là chính người kể chuyện ở ngôi thứ ba – mới chìm đắm trong suy nghĩ: “Sự trả thù, đôi khi bất chấp cả lý trí. Bên cạnh đạo lý, lẽ phải và sự công bằng, vẫn còn một điều gì đó âm thầm chảy, như nước đổ xuống bờ vực trong huyết quản những người cùng mang chung một dòng máu”.
Và khi tận mắt chứng kiến cảnh vợ con những tên ác ôn bị giết trong chiến tranh nay phải sống tủi nhục, chịu cảnh bị chèn ép đến khốn khổ bởi sự thù ghét của những người xung quanh - bản thân họ cũng nuôi trong lòng sự thù ghét những người thù ghét mình – Quy day dứt khôn nguôi: “Họ không hiểu, nếu cái vòng luẩn quẩn này cứ quay mãi thì tội ác sẽ không bao giờ chấm dứt và sự công bằng mà con người từng khao khát sẽ chẳng bao giờ có cả”.
Như vậy, vấn đề của chiến tranh ở đây không chỉ là hủy diệt bên ngoài, mà còn là hủy diệt bên trong con người, là sự gieo mầm và nuôi dưỡng cái ác, sự dữ, và lòng thù hận giữa người với người. Nhân vật Quy thường xuyên qua lại giữa những hồi ức chiến tranh khốc liệt và cái thực tại của thời hậu chiến rối bời, chị làm tất cả những gì có thể để khâu vá những vết thương trong tâm trí, tâm hồn, rồi biết rằng đó là điều chỉ đạt được trong muôn một. Cái chết trong đau đớn và cô độc của của Quy, xét cho cùng, chính là sự giải thoát cho một cuộc đời vốn đã bị quá nhiều nỗi buồn cào xé.

2. Ba mươi lăm năm sau khi tiểu thuyết “Chim én bay” xuất bản lần đầu tiên, năm 2023, ở tuổi gần bát thập, nhà văn Nguyễn Trí Huân mới trở lại với văn xuôi hư cấu bằng tập truyện “Bất chợt mai vàng”, gồm hai truyện vừa – coi như hai tiểu thuyết ngắn cũng được – là “Bất chợt mai vàng” và “Con họa mi lông xù vừa bay vừa hót”.
Hai truyện này vẫn có chiến tranh và nhân vật người lính, nhưng chiến tranh không phải là toàn bộ không gian của truyện, mà chỉ là một mảnh ghép trong tổng thể của bức tranh nhân sinh rộng lớn; và người lính thì không chỉ có câu chuyện trên chiến trường hay trong các mối quan hệ giữa ta và địch, mà anh ta còn được đặt trong sự ràng níu của những yếu tố xã hội và đạo đức phức tạp hơn rất nhiều.
Trong truyện “Bất chợt mai vàng”, người kể chuyện xưng tôi kể về anh trai mình, chiến sĩ thời chống Mỹ: một vợ bốn con, hết tuổi quân dịch nhưng vẫn xin vào bộ đội cho bằng được, cốt để xóa cái lý lịch có bố đi lính đánh thuê cho Pháp và gia đình bị quy thành phần địa chủ trong cải cách ruộng đất.
Ở chiến trường Quảng Nam, cùng đơn vị với ông Kháng có ông Tuân, người cùng tỉnh cùng huyện, cũng là người gây ra nhiều rắc rối cho ông Kháng nhất, bởi cái tính ngại khó ngại khổ, thích hưởng thụ, và sợ chết. Đỉnh điểm là việc ông Tuân cáo bệnh, trốn nhiệm vụ, đẩy cho ông Kháng gánh thay, để rồi cuối cùng không phải ông, mà là ông Kháng và hai người nữa bị bom pháo dội chết, thi thể lẫn bết vào nhau. Còn ông Tuân thì nhân lộn xộn đã đào ngũ.
“Con họa mi lông xù vừa bay vừa hót” lại là câu chuyện về một nhân vật được người kể chuyện xưng tôi gọi là lão, một người họ Phạm ở làng Hạ, vào bộ đội và nhanh chóng trở nên nổi tiếng là một chỉ huy tài giỏi với lối đánh trận táo bạo, thông minh, luôn đạt hiệu quả quân sự tối ưu, là anh hùng không chỉ trong kháng chiến chống Mỹ mà cả trong chiến tranh chống quân xâm lược biên giới phía Bắc sau này.
Không những thế, lão còn là một người đồng đội chí nghĩa, biết đối xử rất tình cảm mà lại đúng mực với vợ góa của đồng chí chính ủy đã hy sinh, ân nhân của lão trong chiến tranh. Ra quân, làm một cán bộ dân sự cấp cao, lão biết quan tâm đến đời sống của anh em cấp dưới cũng như của những người lao động xung quanh, luôn lắng nghe họ nói và hết sức tìm cách giúp đỡ cho bằng được. Tóm lại, một con người đáng kính trọng và chừng như không còn gì để phải bàn cãi.
Thế nhưng, trong sâu thẳm con người đáng kính ấy vẫn có một nỗi đau buốt nhói âm ỉ: nỗi đau bị họ Phạm làng Hạ gạch tên và bất kể công huân to lớn đến đâu lão cũng bị họ Phạm từ chối cho nhập họ trở lại. Nguyên nhân là hồi cải cách ruộng đất, để được yên thân và chứng tỏ mình là cốt cán bần cố nông, lão đã tuyên bố từ họ Phạm, từ cả bà cô ruột đã cưu mang nuôi nấng kể từ khi cha mẹ lão bị giặc chặt đầu bêu cọc.
Nếu đồng ý rằng gia tộc/ dòng họ, “họ”, là một thiết chế vô cùng quan trọng và thiêng liêng trong cấu trúc xã hội Việt Nam và trong quan niệm của người Việt Nam nói chung, thì việc từ họ quả là một việc đại nghịch bất đạo, một tội ác. Vì thế, vấn đề đặt ra ở truyện “Con họa mi lông xù vừa bay vừa hót”, cũng như ở truyện “Bất chợt mai vàng”, có lẽ cần phải được đọc thành mối quan hệ giữa tội ác và sám hối.
Tội ác là tội ác, một thực tế đã xảy ra mà không gì có thể biện minh cho nó được – biện minh được thì nó đã không còn là tội ác – và kẻ phạm tội ác thì đương nhiên phải chịu sự trừng phạt, không của người thì của trời, và chỉ còn biết sám hối và tích cực làm điều thiện nếu vẫn đủ lương tri. Sám hối và làm điều thiện không phải để mong được tha thứ, sám hối và làm điều thiện chỉ để cho kẻ phạm tội ác cảm giác nhẹ lòng hơn mà chờ ngày cái chết mang đi tất cả.
Giống như trong truyện “Bất chợt mai vàng”, khi ông Tuân thú nhận với người kể chuyện xưng tôi, em trai ông Kháng: “Tôi cực lắm chú ạ. Cả làng cả xóm vẫn ruồng bỏ tôi. Con tạo quá cay nghiệt. Hình như tôi đã bị trả giá. Người ta, lúc ngộ ra được một điều gì đó thì đã già, không còn cơ hội để ăn năn, để chuộc lỗi”. Hay như khi người kể chuyện xưng tôi trong “Con họa mi...” tự nhủ trước huyệt mộ của nhân vật lão, chết trong dịch COVID-19: “Tôi nghĩ rằng cái chết của lão, cuộc đời của lão là dấu chấm hết cho một vết thương cũ. Vết thương hơn 60 năm từng xói mòn biết bao nhiêu số phận”.
Từ tiểu thuyết “Chim én bay” đến tập truyện “Bất chợt mai vàng”, quãng cách ba mươi lăm năm, văn chương Nguyễn Trí Huân vẫn là một văn chương rất ổn định về phong cách: hiện thực, kỹ lưỡng, tinh tế, điềm đạm và buồn. Là một nhà văn quân đội từng trải qua bom đạn chiến tranh, từng trải nghiệm lằn ranh mong manh giữa sự sống và cái chết, từng chứng kiến những số phận người bị nghiền nát trong chiến tranh hoặc bị vầy vò điêu đứng trong hậu chiến, ông muốn từ đó kể những câu chuyện của mình, theo cách đúng là mình nhất.
Những câu chuyện mà trong đó chiến tranh giữ phần tham góp quan trọng vào các khả thể mà người ta lựa chọn để ứng xử như những con người giữa cuộc đời này, với tất cả được và mất, đúng và sai, niềm vui và nỗi buồn. Xem ra Nguyễn Trí Huân nhận thấy buồn nhiều hơn vui, nên văn chương của ông mới ngậm ngùi buồn đến thế...