Có một nhà thơ "vẩy bút làm mưa gió"
Khác với rất nhiều thi sĩ theo đuổi đến tận cùng thi nghiệp của mình, trong 76 năm hiện diện trên dương thế, Trần Huyền Trân(*) chỉ dành cho thơ độ bảy, tám năm, chủ yếu là từ 1939 đến 1946. Sau này, tuy thỉnh thoảng ông có viết một đôi bài thơ, nhưng sự nghiệp chính của ông từ 1945 trở đi, có lẽ gắn với lĩnh vực sân khấu nhiều hơn.
Dường như đó là một phần lý do để Tô Hoài vừa nhận thấy ở Trần Huyền Trân "Một hơi thở gồ ghề, lẫm liệt", vừa nhận thấy trong sự nghiệp ông "bộ môn nào cũng tưởng như đang còn dở dang, chưa hẳn đã tỏ rõ đầy đủ khí thế có thật của anh, nhất là trong thơ. Nếu ai đã đọc thơ anh, dễ thấy có lẽ những bước nhảy vọt trên đường phát triển, anh chưa sửa soạn, chưa có khai phá mới, luôn luôn mới, trong khi thật sự sức mạnh sáng tạo của anh hơn thế nhiều".
Tuy nhiên, tôi lại nghĩ hơi khác. Cái tinh anh của Trần Huyền Trân trong thơ đã phát tiết đúng độ của nó rồi. Cái tài hoa của thơ ông cũng đã đạt đến "cõi". Cái bản sắc, giọng điệu riêng của ông cũng đã định hình. Khó có thể tìm ra căn cứ để nói rằng nếu ông không chuyển sang làm sân khấu, cứ tiếp tục sự nghiệp thơ ca của mình thì ông sẽ đạt đến những đỉnh cao sáng tạo khác, những thành tựu thơ ca lớn hơn thế. Tuy sáng tác không nhiều, nhưng ngay từ khi mới xuất hiện thơ Trần Huyền Trân đã "lọt mắt xanh" nhà phê bình Hoài Thanh. Trần Huyền Trân đã được đưa vào “Thi nhân Việt Nam” với lời đánh giá: "Viết đến đây tôi đã định khép cửa lại, dẫu có thiên tài đến gõ cũng không mở. Thế mà lại phải mở cửa để đón một nhà thơ nữa! Trần Huyền Trân... Tôi đã tìm thấy ở đây cái thú của người đi đổi gió".
Với những bài thơ đã có đủ để người đời biết đến ông bằng danh hiệu nhà thơ, đủ để lịch sử văn học ghi tên ông vào danh sách những nhà thơ có bản sắc trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Trong “Tuyển tập Nguyễn Bính”, khi so sánh ba nhà thơ thuộc "hội tam anh", chính Tô Hoài xác nhận: "ở trường thơ ấy, mỗi người đã thể hiện một phong cách độc đáo. Thâm Tâm và Trần Huyền Trân sừng sững và cũng cô đơn như gốc đa, như con đò một mình". Cái chung giữa họ là tâm hồn tù túng, bế tắc. Nhưng cái riêng giữa họ lại mỗi người một vẻ khác nhau: Thâm Tâm thường xúc cảm day dứt về những cuộc ra đi. Nguyễn Bính thường lưu luyến với cảnh xưa người cũ nơi thôn dã, quê mùa đầy tâm sự bi phẫn, u uất.
Đọc thơ Trần Huyền Trân, ta hay gặp những tâm trạng cảm khái:
Nhớ nhau vảy bút làm mưa gió
Cho đống xương đời được nở hương.
(“Lưu biệt”)
Bút dầm biển mực chưa thành sóng
Đã phải cắm lòng khúc tráng ca.
(“Đôi ta”)
Nhớ người, nhạt thếch rượu đời
Tay vo chỏm tóc, ta ngồi ta ca
Khóc nhau, ném chén tan tành...
Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ!
(“Độc hành ca”)
Đằng sau tâm trạng cảm khái của ông không phải là những bùi ngùi, tiếc nuối thường thấy trong thơ cổ mà là những nỗi niềm u uất, những day dứt không nguôi về tình đời, tình người giữa thực tại không thỏa mãn. Đôi khi, ta thấy giọng thơ ông bi tráng, tiềm ẩn những tâm sự lớn, những nỗi ưu tư dằn vặt lớn. Dường như đó không phải là tâm trạng ngoại lệ mà là tâm trạng phổ biến của những tâm hồn thi sĩ nhạy cảm đã bắt đầu nhận thấy một điều gì đó đang diễn ra, đang đến gần. Có lúc, ta bắt gặp nhà thơ rầu rĩ trong đau khổ, tiều tuỵ trong cô quạnh và bần hàn. Nhưng nhiều lúc ta thấy ông như bừng tỉnh cơn say, trong chiều loạn "mỏi mòn chính khí lạc loài thơ" đã giác ngộ:
Nghĩa lớn ai mua bán chợ chiều
Dập vùi hoa lá biết bao nhiêu
Hãy cùng chiến địa chung trang giấy
Cất bút cho dòng chữ kiếm reo.
(“Chiều loạn”)
Và khi đụng tới những vấn đề lớn của đất nước, Trần Huyền Trân đã có những câu thơ hừng hực hào khí:
Khói lửa bốc hoa tay kẻ sĩ,
Bốn phương về thảo chính khí ca.
(“Đi trên đường Hà Nội sau ngày Tuyên ngôn độc lập 1945”)
Hay:
Hải Phòng cuồn cuộn dâng như biển
Nước mặn đồng chua thêm máu người.
(“Hải Phòng”, 11-1946)
Có lẽ, đó là thứ ánh sáng bên trong dẫn dắt ông đến với “Văn hóa Cứu quốc”, đến với “Đề cương văn hoá Việt Nam” (1943) và đến với những nhà văn, nhà thơ một lòng một dạ dành tâm huyết của đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Hãy tạm gạt sang một bên hơi thơ có vẻ cổ kính, ý thơ nhiều khi khác lạ để trân trọng một hồn thơ nhạy cảm và tài hoa. Hình ảnh trước tiên là hình ảnh của chính bản thân ông - một nhà thơ lầm lì, gân guốc, nhiều u uất và nhiều dự cảm. Ông hay bộc lộ tâm sự, hay độc thoại và có lúc ngơ ngác trước thời cuộc. Nhưng chưa khi nào ông tỏ ra ủy mị, yếu đuối. Ta luôn luôn thấy ở ông những nghiền ngẫm, những do dự, những băn khoăn về lẽ đời, lẽ người, những trăn trở về hành động, những định liệu về các cuộc ra đi đến một nơi nào đó mà chính ông cũng còn chưa ý thức được một cách thật rõ ràng. Một loạt bài như “Mưa đêm lều vó”, “Tha hương”, “Lưu biệt”, “Chiều mưa xứ Bắc gửi người xứ Nam”... đã phần nào nói đến tâm thế ấy của nhà thơ. So với Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân ít làm thơ về tình yêu. Hình bóng những người tình trong thơ Trần Huyền Trân thường là hoài niệm về một tình yêu đã qua, mơ hồ, dịu nhẹ nhưng cũng không kém phần khắc khoải da diết:
Tương phùng là để biệt li
Biệt li là một lòng đi qua lòng
Giờ thuyền em đã sang sông
Anh nhìn khói sóng ngỡ trông mây đèo
Mười năm mới hiểu tình yêu,
Một nguồn hương nhẹ mấy chiều gió đưa.
(“Mười năm”)
Một mình nhóm lại nồi than
Tưởng còn bên lửa mấy bàn tay hơ.
(“Đêm trừ tịch”)
Xa nhau gió ít, lạnh nhiều
Lửa khuya tàn chậm, mưa chiều đổ nhanh.
(“Tương tư”)
Trần Huyền Trân cũng là một nhà thơ được nhắc đến trong nghi án văn học của T.T.KH. Người ta nhắc nhiều đến “Hai sắc hoa tigôn” mà ít biết rằng Trần Huyền Trân cũng có những câu thơ cùng mang một nỗi lòng một tâm sự với người thiếu phụ cô đơn:
Bây giờ năm tháng vô duyên quá
Em đã theo chồng bến cát xa
Đò đã sang sông chèo lái mới
Sao còn khua sóng mãi thơ ta.
(“Trưa ấy qua rồi”)
Bên cạnh khẩu khí và phong thái cao ngạo của thi sĩ đã bắt đầu chếnh choáng hơi men giang hồ, thơ Trần Huyền Trân còn bộc lộ một thứ tình cảm ít thấy trong sáng tác của các thi nhân tiền chiến. Đó là tình bằng hữu và tình mẫu tử. Đằng sau hình ảnh tự họa của ông, là hình ảnh những người bạn cùng cảnh, cùng chí hướng. Gần gũi hơn cả là Nguyễn Bính và Thâm Tâm. Hình như họ kết bạn với nhau không chỉ vì tài hoa mà còn vì những tù túng đói nghèo, những kỷ niệm rau cháo trong lều tranh, xóm chợ. Chỉ riêng thơ tặng bạn, tặng người thân của ông đã "Bắc cả thiên thu một nhịp cầu". Điều đáng quý là giữa hai phong cách thơ Nguyễn Bính và Thâm Tâm, Trần Huyền Trân vẫn giữ được một bản sắc riêng độc đáo. Thơ Trần Huyền Trân vừa phảng phất cái dư vị ngâm vịnh của người xưa, vừa gần gũi với đời thường. Có những lúc, ông hình dung ra mình được ngồi uống rượu với Tản Đà, để giao cảm với tiền nhân:
Cụ hâm rượu nữa đi thôi
Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu
Rồi lên ta uống với nhau
Rót đau lòng ấy vào đau lòng này.
(“Uống rượu”)
Kể từ thời Thơ mới cho đến nay những câu thơ tả thực tâm trạng của con người thật như thế này cũng không phải là nhiều. Lại có những lúc, với một người đàn bà yêu thơ nào đó, ông bộc bạch:
Tim tôi chiếc lá dâu xanh
Tằm đời ăn rỗi trơ cành còn chi.
(“Thưa bà”)
Hình như đó là lúc thi nhân cảm thấy thấm thía nỗi buồn về sự đen bạc của cuộc đời. Song, khác với Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân đã khước từ được sự mời mọc của những cuộc giang hồ. Ông đã đến với Cách mạng sau rất nhiều những dự định lưu biệt, ra đi. Điều đó, phù hợp với những gì đã từng khiến ông day dứt, "say ca" và "bốc máu lên", khi "chân trời đã rạng". Những năm cuối đời, khi đã bước vào tuổi 70, Trần Huyền Trân vẫn có những câu thơ đẹp nói về đất nước mà hồn thơ ông đã suốt đời gắn bó: "Cho xanh gốc tự do/ Cho xanh trời độc lập/ Cho bông hoa nhỏ nhất/ Cũng thơm suốt đời hoa/ Ngẫm người ta hoá đất/ Tưới nước mắt yêu thương/ Thơ mang tình đất nước/ Vẫn vô tận nguồn hương".
Từ năm 1954 trở đi, Trần Huyền Trân chuyển sang hoạt động chủ yếu ở lĩnh vực sân khấu. Từ đó cho đến lúc hai tay buông xuôi "lực bất tòng tâm", ông đã dành cho sân khấu tất cả những gì còn lại: bầu nhiệt huyết của nghệ sĩ và tình yêu trở thành nỗi đam mê với nghệ thuật chèo. Quả thực, ở địa hạt mới này, ông không còn bộc lộ tài hoa như ở địa hạt của thơ ca trước Cách mạng, nhưng ông lại bộc lộ một năng lực khác - năng lực cảm thụ những cái hay, cái đẹp của nghệ thuật chèo truyền thống. Ngoài công việc quản lý và tổ chức, ông cùng một số nghệ sĩ như Lộng Chương, Lưu Quang Thuận, Nguyễn Đình Hàm, đã dày công sưu tầm, chỉnh lý những tích chèo cổ, những trích đoạn đã trở thành mẫu mực nhằm bảo lưu những giá trị nghệ thuật cao quý của dân tộc và đào tạo nghề cho những thế hệ diễn viên mới.
Với lớp nghệ sĩ sân khấu ngày nay, ông không chỉ là người tiền nhiệm, người thầy mà còn là một nghệ sĩ mẫu mực, tận tuỵ với nghệ thuật truyền thống của dân tộc.
Thời gian cuối đời, nhà thơ Trần Huyền Trân mắc bệnh hiểm nghèo. Ông nằm tiều tuỵ, nhỏ thó trên giường bệnh. Một tấm chăn mỏng đắp ngang bụng, che đi phần cơ thể phía dưới đã bị các bác sĩ tháo dần đi để duy trì mạng sống cho ông. Chỉ có cặp lông mày xếch và đôi mắt rất sáng là vẫn còn giữ được vẻ tinh anh và hào hoa như thuở nào ông viết những câu thơ đầy cảm khái:
Nhớ nhau vẩy bút làm mưa gió
Cho đống xương đời được nở hương.
Số phận Trần Huyền Trân có nhiều điều bất hạnh. Nhưng lúc nào ông cũng là người hiền hậu, vui vẻ và giàu tình nghĩa. Tôi vẫn còn nhớ những lần được đi cùng cha tôi đến thăm ông. Sau một hồi dài ngồi trên tàu điện nghe tiếng chuông leng keng chạy dọc phố Hàng Bột, cha con tôi bước vào căn nhà làm bằng tre nứa của ông ở phía sau nhà thờ Nam Đồng. Ở đó các ông say sưa bàn bạc với nhau những dự định về nghệ thuật, chia sẻ cùng nhau những ấm lạnh của cuộc đời. Trần Huyền Trân mất ngày 22/4/1989 tại Hà Nội. Rồi thời gian sẽ làm mờ dần hình ảnh tiều tuỵ của ông vào lúc cuối đời trong con mắt những người quen biết. Nhưng những câu thơ và bầu tâm huyết ông dành cho nghệ thuật mãi mãi còn gắn liền với cuộc đời tài hoa mà bất hạnh của ông. Ngày chia tay ông, một buổi chiều tháng tư buồn lạnh, con trai ông cầm chai rượu trắng dốc lên mộ, bên cạnh đó,nhà viết kịch Lộng Chương nghẹn ngào đọc những câu thơ vĩnh biệt.
Bạn đã đi về nơi vĩnh cửu
Bạn ơi lòng đất ấm tình không?