Câu chuyện từ những bức ảnh lịch sử
Dư luận quốc tế và Việt Nam những ngày qua xôn xao về việc World Press Photo ngừng ghi nhận Nick Út là tác giả bức ảnh “Em bé Napalm”, tuy vậy Hãng thông tấn AP tuyên bố vẫn giữ nguyên tác quyền bức ảnh từng gây sốc cả thế giới vào năm 1972, là của Nick Út. Dù chưa có kết luận cuối cùng hoặc có thể không bao giờ có kết luận cuối cùng về tác giả đích thực của “Em bé Napalm”, thực tế cho thấy, những bức ảnh lịch sử nói chung, ảnh báo chí nói riêng có hàm lượng thông tin rất lớn, tác động sâu sắc đến công chúng, thậm chí có thể gây chấn động dư luận xã hội, dư luận quốc tế.
Một sự kiện của đời sống xã hội, khi được phản ánh qua báo chí luôn phải bảo đảm tính trung thực, khách quan, có nguồn tin và có thể kiểm chứng; trong đó, bức ảnh kèm theo có ý nghĩa rất lớn. Với những sự kiện lịch sử thì bức ảnh càng giữ vai trò quan trọng, nhất là nếu tầm vóc sự kiện quá lớn. Trong phạm vi bài viết này, xin được trao đổi với bạn đọc về một số bức ảnh gắn với lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX. Những bức ảnh này đã rất nổi tiếng, song không nhiều người biết “số phận” của nó, bối cảnh chụp và thông tin liên quan đến sự kiện...
Bức ảnh nổi tiếng trong hồ sơ mật thám Pháp tại Bangkok
Cách nay gần 100 năm, vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông là một sự kiện chấn động với cả Việt Nam và các nước Pháp, Anh. Ngày 6/6/1931, cảnh sát Hồng Kông bắt giữ nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc, lúc này sử dụng bí danh Tống Văn Sơ tại địa chỉ 186 phố Tam Lung, Cửu Long, Hồng Kông. Ngay khi bắt được Tống Văn Sơ, cảnh sát chụp ảnh và lập hồ sơ người bị bắt; bức ảnh bị can với mái tóc bồng bềnh, đôi mắt sáng nhưng đầy âu lo, trên cổ đeo một tấm thẻ gỗ có hàng chữ “Tống Văn Sơ”, được báo cáo nhà đương cục Anh và thông tin cho mật thám Pháp.

Nằm trong âm mưu dẫn độ Nguyễn Ái Quốc về Đông Dương để thi hành bản án tử hình (vắng mặt) theo phán quyết số 115 của Tòa án Vinh 2 năm trước đó (10/10/1929); nhà cầm quyền Pháp ra sức vận động Chính phủ Anh và Hội đồng Hành pháp Hồng Kông sớm trục xuất Tống Văn Sơ về Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Tống Văn Sơ ý thức rất rõ tình thế hiểm nghèo, nguy nan đến tính mạng. Sau này, Người nhớ lại: “Khi bị bắt giam, trong tâm trạng chỉ có một điều là lo, không phải lo cho số phận mình sau này sẽ ra sao, vì sẵn biết kết quả cuối cùng chỉ có thể: hoặc sẽ bị bọn thực dân thủ tiêu; hoặc sẽ thoát khỏi xiềng xích, trở lại hoạt động cách mạng. Lo là lo những công việc mình làm chưa xong, ai sẽ tiếp tục làm thay? Ít nhiều kinh nghiệm của mình đã gom góp được, làm thế nào để truyền lại cho đồng chí khác? Những mối manh và những địa điểm chỉ có mình biết, từ nay ai sẽ xây dựng lại?”.
Với sự giúp đỡ của những người đồng chí cùng bản lĩnh, sự thông tuệ của Nguyễn Ái Quốc, Công ty Luật sư Russ nổi tiếng của Anh đã cử Luật sư Loseby bảo vệ thân chủ Tống Văn Sơ. Trải qua 9 phiên xét xử, kể cả việc kháng án lên Hội đồng Cơ mật Hoàng gia Anh, Tòa án Hồng Kông đã không thể khép Tống Văn Sơ vào một tội danh nào và buộc phải trả tự do cho Người sau 20 tháng giam cầm... Sau khi được trả tự do, Tống Văn Sơ lập tức rời khỏi Hồng Kông, tiếp tục hành trình tìm đường cứu nước và cũng gần như lập tức, mật thám Pháp phát lệnh truy nã với bản tin định kỳ số 33 ngày 25/3/1933 của Cảnh sát hình sự Bắc Kỳ. Lệnh truy nã, với nhận dạng và ảnh chân dung Tống Văn Sơ chụp trong nhà tù Hồng Kông được gửi đi khắp mọi nơi có sự hiện diện của nước Pháp. Tròn 20 năm sau, một bức ảnh Tống Văn Sơ trong lệnh truy nã đã trở về với chính người trong ảnh - Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thời kỳ 1946-1951, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ có duy nhất một cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, đặt tại Thủ đô Bangkok, Thái Lan, có tên gọi là Phái viên quán. Một trong những thành viên của cơ quan này là bà Nguyễn Thị Cúc (SN 1926). Sinh thời, bà Cúc từng kể lại với PV (một phần thông tin này đã đăng tải năm 2004 trên Chuyên đề ANTG Cuối tháng của Báo CAND): “Gọi là Phái viên quán vì khi đó ta chưa lập quan hệ ngoại giao với Thái Lan. Thời gian công tác tại đây, tôi may mắn lưu giữ được một số kỉ vật của Bác Hồ, trong đó có bức ảnh Tống Văn Sơ. Trước thời điểm này, chưa một cơ quan, phương tiện thông tin nào của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa biết tới bức ảnh Tống Văn Sơ. Bức ảnh gốc (cỡ 6x9) do một Việt kiều yêu nước làm việc trong Sứ quán Pháp ở Bangkok tìm đến Phái viên quán vào năm 1948, trao cho ông Nguyễn Đức Quỳ, Trưởng Đoàn phái viên (chồng bà Cúc - PV) với lời nhắn: “Tôi là người Việt Nam ở nước ngoài. Tôi rất cảm phục Cụ Hồ. Đây là bức ảnh lấy từ hồ sơ Nguyễn Ái Quốc lưu trong Sứ quán Pháp ở Bangkok, có lẽ là một tư liệu rất quý với các ông”...
Bức ảnh này được bà Cúc ra một hiệu ảnh ở Bangkok, phóng lên cỡ 9x12 và luôn giữ gìn cẩn thận. Năm 1950, tình hình chính trị Thái Lan có những thay đổi bất lợi cho quan hệ Việt - Thái. Một thời gian sau, Đoàn phái viên Chính phủ ta phải trở về nước. Giữa năm 1951, đoàn về tới Thủ đô kháng chiến Việt Bắc và được đến chào Bác Hồ. Bà Cúc nhớ lại: “Nhà Bác ở lưng chừng một quả đồi. Hôm đó, Bác mặc bộ quần áo nâu gụ, Người ân cần thăm hỏi mọi thành viên trong đoàn rồi nói về tình hình kháng chiến, kiến quốc và biểu dương Đoàn phái viên Chính phủ ta ở Bangkok đã hoàn thành sứ mệnh được giao. Khi từ biệt, Bác tiễn đoàn xuống tận chân đồi. Lúc này, tôi mới đưa bức ảnh Tống Văn Sơ trân trọng biếu Bác. Trong lúc Người cầm bức ảnh chăm chú ngắm, tôi mạnh dạn hỏi: “Thưa Bác! Bác có nhận ra ai không ạ?”. Bác nhìn tôi, mỉm cười gật đầu rồi cất bức ảnh vào túi... Một thời gian sau, Bác cho công bố bức ảnh lịch sử này”.
Về bức ảnh gốc chụp Tống Văn Sơ lưu trong hồ sơ mật thám Pháp, bà Cúc giữ gìn như một kỉ vật. Mãi sau này, khi đã tuổi cao, sức yếu, bà quyết định tặng Phòng Lưu trữ, Bộ Ngoại giao, nơi vợ chồng bà đã công tác trong một thời gian dài; hiện nay, PV Báo CAND còn lưu giữ được bản photo biên bản bàn giao. Bà Nguyễn Thị Cúc sau này cũng chính là người phiên dịch cho gia đình Luật sư Loseby trong thời gian thăm Việt Nam với tư cách là khách mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Tết Canh Tý năm 1960).
Bức ảnh ký Hiệp định Sơ bộ những ngày “vận nước ngàn cân treo sợi tóc”
Nước Việt Nam mới ra đời ngày 2/9/1945 đã phải đối diện với muôn vàn thử thách hiểm nghèo. Ở miền Bắc Việt Nam, 20 vạn quân Tàu Tưởng vượt biên giới Việt - Trung tiến vào tước khí giới quân Nhật, đem theo nhiều tổ chức Việt gian. Tại miền Nam, theo chân quân Anh vào giải giáp quân Nhật, nhiều đơn vị quân Pháp tiến vào Sài Gòn. Tình thế càng hiểm nghèo khi ngày 9/10/1945, Anh đã kí với Pháp một hiệp định chính thức công nhận quyền dân sự của Pháp tại Đông Dương và ngày 1/1/1946, Anh kí hiệp định trao quyền cho Pháp giải giáp quân Nhật từ phía Nam vĩ tuyến 16 trở vào. Ngoài những hiểm họa trên, trong thời gian Nhật chiếm đóng Đông Dương, Pháp vẫn duy trì 50.000 quân tại Đông Dương. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, trên lãnh thổ Việt Nam còn có khoảng 60.000 quân Nhật chờ giải giáp.

Như vậy, thời điểm đầu năm 1946, trên lãnh thổ Việt Nam có hơn 300.000 quân nhân của nước ngoài với những lợi ích, âm mưu khác nhau nhưng đều có chung mục đích tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ. Vận nước lúc này, như Bác Hồ nhận định: “Ngàn cân treo sợi tóc”.
Với phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, Bác Hồ và Trung ương Đảng đã nỗ lực hữu hảo với Tưởng, hòa hoãn với Pháp và tận dụng thời cơ đẩy lùi thù trong giặc ngoài. Tình hình Trung Quốc lúc này cũng có nhiều chuyển biến buộc Tưởng Giới Thạch phải có sự thay đổi chính sách với Việt Nam, tập trung lực lượng đánh chiếm những vùng giải phóng của Đảng Cộng sản Trung Quốc đang ngày càng mở rộng. Tưởng - Pháp kí kết Hiệp ước Trùng Khánh ngày 28/2/1946. Theo đó, Tưởng đồng ý việc Pháp vào thay quân đội Tưởng giải giáp quân Nhật ở Bắc vĩ tuyến 16; Pháp nhân nhượng cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế và tô nhượng tại Trung Quốc.
Thông qua Hiệp ước Trùng Khánh, Pháp tỏ rõ quyết tâm trở lại cai trị Việt Nam bằng cách thay chân quân Tưởng. Qua phân tích tình hình, Bác Hồ nhận định: Phải tránh để Việt Nam phải đối đầu với cả quân Pháp lẫn quân Tưởng. Kẻ thù chính lúc này là thực dân Pháp nhưng 20 vạn quân Tưởng là một mối họa lâu dài, còn nguy hiểm hơn. Ngày 5/3/1946, thông qua một sĩ quan liên lạc của quân đội Tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển thông điệp sẽ kí kết với phía Pháp một thỏa ước. Tối cùng ngày, Người gặp Sainteny (đại diện Chính phủ Pháp) và họp đến quá nửa đêm nhưng vẫn không đạt được thỏa thuận, vì phía Pháp cương quyết nói không với 2 chữ “độc lập” trong dự thảo văn bản hiệp định. Đầu giờ chiều 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị thay cụm từ “độc lập” bằng “tự do” (“Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do”, thay vì “một quốc gia độc lập” - PV) trong bản dự thảo Hiệp định Sơ bộ. Theo Hiệp định Sơ bộ, Việt Nam thuận cho 15.000 quân Pháp vào Bắc Việt Nam thay thế 20 vạn quân Tưởng giải giáp quân Nhật. Số quân Pháp sẽ rút hết trong hạn 5 năm, mỗi năm rút một phần năm...
Hai bên quyết định sẽ kí Hiệp định Sơ bộ vào hồi 16h30 ngày 6/3/1946 tại một địa chỉ rất gần trụ sở Báo CAND hiện nay (số 2A Đinh Lễ), là dinh thự số 38 Lý Thái Tổ, Hà Nội. Tham gia lễ kí, về phía Việt Nam có Hồ Chủ tịch và Hoàng Minh Giám, Vũ Hồng Khanh; về phía Pháp có các ông Sainteny, Pignon, Caput. Những người chứng kiến có đại diện ngoại giao của Lãnh sự Mỹ Sullivan, Công sứ Anh Wilson, Công sứ Trung Quốc Vương Tư Kiên. Trước khi đặt bút kí, Hồ Chủ tịch nói: “Bây giờ ông Giám sẽ đọc bằng tiếng Pháp bản Hiệp định”; rồi Bác và Sainteny cùng kí vào bản Hiệp định Sơ bộ. Một tiệc trà được tổ chức để chúc mừng việc kí kết. Khi Sainteny chúc mừng Hồ Chủ tịch, Người đã đáp lại bằng sự thể hiện quyết tâm: “Cảm ơn ông, nhưng thật ra, tôi chưa vừa lòng. Ông biết đấy, tôi muốn nhiều hơn, tôi muốn nước tôi được độc lập, và chắc chắn nước tôi sẽ độc lập”.
Nhà nhiếp ảnh duy nhất có mặt chứng kiến và chụp bức ảnh lễ ký kết này là Nguyễn Bá Khoản. Ông cũng là tác giả của nhiều bức ảnh lịch sử như cuộc biểu tình trước Nhà hát Lớn (Hà Nội) ngày 17/8/1945, lực lượng khởi nghĩa tiến chiếm Bắc Bộ phủ (19/8/1945)...
Bức ảnh lễ nhận quốc thư đầu tiên giữa núi rừng Việt Bắc
Khoảng năm 2006, PV Báo CAND biết được thông tin khá mơ hồ từ một cựu thanh niên xung phong từng tham gia xây dựng ngôi nhà phục vụ lễ nhận quốc thư đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tổ chức tại Thái Nguyên vào tháng 9/1954. Nhận thức đây là một đề tài hấp dẫn, PV đã dày công tìm hiểu, chắp nối các thông tin.
Tại Thư viện Báo Nhân dân còn lưu giữ tờ Nhân dân số 221 (ra ngày 4-6/9/1954) có tường thuật khá chi tiết lễ trình quốc thư của Đại sứ Trung Quốc La Quý Ba lên Chủ tịch Hồ Chí Minh, gồm phát biểu của đại sứ, đáp từ của Hồ Chủ tịch... Tuy nhiên, có thể do điều kiện kỹ thuật, số báo này và nhiều số báo sau đều không đăng bức ảnh lễ trình - nhận quốc thư. Thời điểm năm 2006, PV đã kì công nhưng không thể tìm thấy bức ảnh này trên mạng; theo phỏng đoán, các báo in từ 1954-2006 có thể cũng chưa từng in bức ảnh lễ nhận quốc thư đầu tiên trong lịch sử ngoại giao nước Việt Nam hiện đại.
Lễ trình quốc thư diễn ra lúc 4 giờ chiều ngày 1/9/1954. Trong ngôi nhà do lực lượng thanh niên xung phong dựng lên tại một địa điểm bí mật thuộc huyện Đại Từ (Thái Nguyên), Bác Hồ đứng ở chính giữa phía đầu hội trường. Bên phải Bác là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Chánh Văn phòng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và Vụ trưởng Lễ tân Vũ Đình Huỳnh. Về phía Sứ quán Trung Quốc, có Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền La Quý Ba và 3 cán bộ là Tham Tán, Bí thư Thứ hai và Bí thư Thứ ba.
Theo tường thuật của Báo Nhân dân, sau khi trình quốc thư lên Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại sứ La Quý Ba đọc diễn văn, có đoạn: “Thưa đồng chí Chủ tịch, trong lúc này trình quốc thư lên Chủ tịch, tôi xin thay mặt Chủ tịch Chính phủ nhân dân trung ương nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và nhân dân Trung Quốc gửi lời chào cao cả và chân thành tới Chủ tịch và nhân dân Việt Nam anh dũng. Nhân dân Việt Nam anh dũng đã kiên quyết không chịu khuất phục, đấu tranh trường kì để chống kẻ xâm lược nước ngoài, tranh thủ độc lập và tự do của dân tộc, và trong 8 năm kháng chiến gian khổ đã tỏ rõ tinh thần ái quốc chủ nghĩa vĩ đại. Nhân dân Trung Quốc rất khâm phục và kính mến nhân dân Việt Nam”... Đại sứ La Quý Ba trịnh trọng hứa: ...“Tôi sẽ dốc toàn sức để củng cố và tăng cường tình đoàn kết và hữu hảo vững bền như anh em giữa nhân dân hai nước và làm cho quan hệ hợp tác kinh tế và văn hóa của hai nước chúng ta ngày càng phát triển”.
Tiếp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: “Chúng tôi biết rằng: một trong những nguyên nhân to lớn của thắng lợi chúng tôi là nhân dân Trung Quốc và nhân dân Liên Xô đã ủng hộ chúng tôi như anh em, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới và nhân dân Pháp cùng ủng hộ chúng tôi”...
Đã nắm rõ sự kiện mà không có bức ảnh thì là một thiếu sót lớn, PV bèn liên hệ với bộ phận ảnh của Thông tấn xã Việt Nam. May mắn thay, trong kho lưu trữ ảnh năm 1954, PV tìm được bức ảnh có đánh số hiệu và chú thích chi tiết “Đại sứ Trung Quốc La Quý Ba trình quốc thư lên Chủ tịch Hồ Chí Minh”; PV đã làm các thủ tục cần thiết theo quy định để có được bức ảnh cỡ 9x12 in từ phim gốc. Điều đáng tiếc, đến nay chưa xác định được ai là tác giả bức ảnh lịch sử này; chỉ có điều chắc chắn, Thông tấn xã Việt Nam là nơi giữ bản quyền.
Và bức ảnh lễ trình quốc thư đầu tiên của Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời được hơn 1 năm thì đã phải “chiến đấu trong vòng vây”, chưa một nước nào (tính từ 2/9/1945 đến giữa tháng 1/1950) công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với nước ta. Đến ngày 18/1/1950, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và tiếp đó là Liên Xô (30/1/1950) và một số nước khác chính thức công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Do phải dồn sức cho cuộc kháng chiến và chuẩn bị cán bộ, 2 năm sau khi lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô, đầu năm 1952, Việt Nam mới chính thức đặt Đại sứ quán tại Moscow. Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô là đồng chí Nguyễn Lương Bằng kiêm nhiệm quan hệ với các nước XHCN Đông Âu. Liên quan đến mối quan hệ Việt Nam - Liên Xô và Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô những ngày đầu, một chứng nhân lịch sử đã nêu ở phần đầu bài viết là bà Nguyễn Thị Cúc, làm công tác cơ yếu của sứ quán. Tổ chức bộ máy của sứ quán lúc này rất gọn nhẹ, gồm những cán bộ chủ chốt sau: Đại sứ Nguyễn Lương Bằng; Bí thư Thứ nhất Nguyễn Đức Quỳ; Bí thư thứ hai Nguyễn Văn Thương; Cơ yếu Hà Thục Trinh (phu nhân Đại sứ Nguyễn Lương Bằng) và Nguyễn Thị Cúc (phu nhân đồng chí Nguyễn Đức Quỳ); phiên dịch Nguyễn Mạnh Cầm và Tạ Hữu Canh.
Sinh thời, bà Cúc kể lại: “Ngoài những cán bộ chủ chốt, sứ quán ta còn có một số đồng chí làm công tác phục vụ như lái xe, cấp dưỡng. Ngoài ra, Liên Xô cũng giúp ta một số nhân viên như anh Vassili làm vườn, chị Lena làm liên lạc, anh Pechia làm lái xe và chị Maria làm phiên dịch kiêm dạy tiếng Nga. Những năm tháng đó Liên Xô còn nhiều khó khăn do hậu quả nặng nề của chiến tranh nhưng bạn vẫn dành cho các cán bộ sứ quán ta nói riêng và cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam nói chung sự quan tâm sâu sắc và sự ủng hộ, giúp đỡ quý báu. Bạn dành cho ta một biệt thự cổ xây từ thế kỉ trước làm trụ sở sứ quán và cử công nhân tới tu sửa. Sau khoảng 2 tháng, việc tu sửa hoàn thành và tiến hành gắn biển Đại sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.
Sự kiện quan trọng diễn ra ngay sau khi Đại sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức hoạt động, là lễ trình quốc thư. Buổi lễ diễn ra ngày 23/4/1952, Đại sứ Nguyễn Lương Bằng trình quốc thư lên đồng chí Nikolay Mikhailovich Shvernik - Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô. Lễ trình quốc thư này có ý nghĩa rất lớn trong việc đánh dấu vị thế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên trường quốc tế.

Bức ảnh Đại sứ Nguyễn Lương Bằng trình quốc thư lên Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô do gia đình đồng chí Nguyễn Lương Bằng lưu giữ và cho phép PV sao chép từ nhiều năm trước; đến nay chưa xác định ai là người chụp bức ảnh lịch sử này.
Những bức ảnh lịch sử nêu trên đều gắn với mỗi giai đoạn phát triển cách mạng, của nước Việt Nam hiện đại. Quá trình kháng chiến, kiến quốc, thống nhất đất nước và hiện đại hóa để Việt Nam cất cánh bước vào kỷ nguyên giàu mạnh, văn minh - đã và sẽ xuất hiện những bức ảnh lịch sử. Trên hành trình đó, mỗi nhà báo, nhà nhiếp ảnh, nếu có tâm, có tầm và đủ duyên may thì sẽ vinh dự được chứng kiến, lưu lại những khoảnh khắc trọng đại của đất nước.