Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật: Danh tướng mềm mỏng

Thứ Ba, 30/03/2010, 16:31
Trong hàng ngũ tướng lĩnh kiệt xuất của vương triều Trần góp phần tạo nên các võ công lừng lẫy trong lịch sử dân tộc, Thượng tướng Trần Nhật Duật (1255-1330) được biết đến như một vị danh tướng độc đáo và đặc sắc bậc nhất.

Sinh thời giới quý tộc triều Trần thường gọi ông là Đức ông Hoàng Sáu (ông là con thứ sáu của vua Trần Thái Tông) với sự kính trọng không những về tài năng quân sự mà còn bằng vào khả năng am hiểu sâu sắc các thứ tiếng nước ngoài, phong tục, tập tục các vùng đất không riêng ở Đại Việt. Trong phủ của ông luôn luôn có các gia thần, gia tướng không riêng gì người trong nước mà có rất nhiều người nước ngoài, những tướng lĩnh người Tống khi mất nước cũng được ông thu nhận và giúp họ lập nghiệp.

Sinh thời, thánh tướng Trần Quốc Tuấn, tài năng quân sự kiệt xuất của Việt Nam và thế giới rất yêu mến và tín nhiệm Trần Nhật Duật. Trong các mặt trận then chốt và những trận đánh quyết định, Trần Quốc Tuấn bao giờ cũng giao trọng trách cho Trần Nhật Duật và ông Hoàng Sáu đã không phụ sự trọng dụng của triều đình.

Chính sử chỉ chép kỹ biệt tài quân sự của ông trong chiến thắng Hàm Tử Quan (tháng 5/1285) nhưng trên thực tế tài cầm quân của ông đã sớm được thể hiện từ trước đó, đặc biệt là tư duy quân sự mang tính chiến lược sâu sắc, một bộ óc quân sự phi thường phục vụ hết sức có hiệu quả trong các lần chiến thắng quân Nguyên - Mông.

Trần Nhật Duật được phong tước Chiêu Văn vương năm 12 tuổi, một trong những tước vương trẻ nhất của vương triều Trần. Ông khí chất rộng lượng, tính tình phóng khoáng, rất ham học hỏi, tinh thông cầm kỳ thi họa và đặc biệt giỏi giao tiếp, am hiểu ngôn ngữ và trao đổi được với rất nhiều các dân tộc khác. Triều đình khi có những việc liên quan đến bang giao thường triệu ông về triều khu xử công việc.

Năm 1280, khi tù trưởng đạo Đà Giang Trịnh Giác Mật làm phản, tình hình biên giới phía Tây Bắc đột nhiên trở nên căng thẳng trong khi sứ Nguyên - Mông đang từng ngày ép vương triều Trần qui thuận, không khí trong triều đình đã có lúc rất căng về việc đánh hay dụ hàng Trịnh Giác Mật. Khi ấy, Trần Nhật Duật tiếp nhận công việc dẹp yên Trịnh Giác Mật và triều đình tin tưởng giao công việc đó cho ông. Sau khi tìm hiểu kỹ lưỡng nội tình của việc phản loạn, ông đã một mình đi tay không vào doanh trại tù trưởng, bằng tài ăn nói cũng như sự cảm hóa và am hiểu, trân trọng những tập tục của vùng đất nổi loạn của ông, tù trưởng Trịnh Giác Mật đã quy thuận triều đình mà không tốn một mũi tên. Sau này, dưới sự lãnh đạo của Trần Nhật Duật, các tù trưởng miền Tây Bắc luôn sát cánh cùng với toàn dân tham gia đánh thắng giặc Nguyên - Mông.

Nhãn quan quân sự của Thượng tướng Trần Nhật Duật rất uyên thâm. Trong các lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thứ hai và thứ ba ông đều có công lớn. Là vị danh tướng được nhân dân, đặc biệt là các tù trưởng vùng Tây Bắc yêu kính và ngưỡng mộ nên ông thường xuyên được giao nhiệm vụ tác chiến với quân Nguyên - Mông ở địa bàn quen thuộc Tây Bắc.

Trong hai lần thứ hai và thứ ba- quân Nguyên - Mông tràn sang thì hướng vu hồi thường được chúng xuất phát từ Vân Nam đánh xuống các tỉnh Tây Bắc vào Thu Vật (thuộc Yên Bái ngày nay) do những viên tướng lão luyện, dày dạn trận mạc cầm đầu. Trong khi hướng chính qua ải Nam Quan, Lạng Sơn, Chi Lăng quân chủ lực Nguyên - Mông với khí thế triều dâng thác đổ do các tướng lĩnh khét tiếng A Lý Hải Nha, Nạp Tốc Lạt Đinh, Giảo Kỳ, Đường Ngột Đải, Lý Hằng, Lý Quán… phò thái tử Thoát Hoan tiến thẳng vào Thăng Long và thường là ta bỏ trống kinh thành lánh giặc đợi thời cơ phản kích. Một hướng nữa theo đường biển Vân Đồn - Quảng Ninh (thường là chiến thuyền và thuyền lương) tiến công tạo thế gọng kìm. Vấn đề đặt ra là phải giải quyết tốt các bước tác chiến có tính sống còn nên việc điều các tướng lĩnh chặn giặc để lui binh chiến lược mà không đổ vỡ đại cục là hết sức quan trọng. Trong lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai, cũng là lần ác liệt nhất, Trần Nhật Duật được Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn - vị thống soái tối cao điều lên mặt trận Tây Bắc, và ông đã không phụ lòng tin của triều đình và Quốc công Tiết chế.

Khi nhận trọng trách, Trần Nhật Duật bao giờ cũng có cách khu xử hết sức nhịp nhàng trong việc chống giữ. Ông cầm quân thường rất nhàn nhã, ra trận thong dong đôi khi đem theo cả dàn nhạc. Giặc luôn nể phục và trân trọng tài năng quân sự của ông, đặc biệt là việc dùng các đạo binh dân tộc thiểu số trong hiệp đồng tác chiến hết sức hiệu quả. Vùng biên giới Tây Bắc mênh mông rộng lớn hầu như chỗ nào cũng có dấu chân đức ông Hoàng Sáu từ trước cả khi lũ xâm lăng phạm đến. Ông đánh thủy đánh bộ đều giỏi, dụng binh như thần, tướng sĩ kể cả một số bại tướng vong quốc nhà Tống đều một lòng một dạ chiến đấu dưới ngọn cờ của Chiêu Văn vương như danh tướng Triệu Trung. Ông cũng rất hiểu tình thế ngàn cân treo sợi tóc của triều đình và những lo lắng khôn cùng của Trần Quốc Tuấn. Có thể hiểu ông như một cánh tay đắc lực của Quốc công Tiết chế trong san sẻ những ý đồ chiến lược. Điều ông lên tác chiến với địch vùng Tây Bắc là một tính toán hết sức hợp lý của Trần Quốc Tuấn. (Khi kháng chiến Nguyên - Mông lần thứ hai, Trần Nhật Duật mới tròn 30 tuổi). Dám tin tưởng vào các tài năng trẻ dù trong tôn thất hay những tài năng phát hiện từ nhân dân cho thấy cách dùng người đã đạt đến độ thượng thừa của vương triều Trần mà công lao lớn nhất thuộc về Trần Quốc Tuấn.

Gánh trọng trách trấn nhậm vùng Tây Bắc, Trần Nhật Duật hiểu được rồi đây cuộc chiến sẽ hết sức khốc liệt, các mặt trận chính sẽ bị vỡ trước sức mạnh ban đầu không thể cản được của đế chế Nguyên - Mông. Nhưng việc quan trọng có tính quyết định là phải bảo toàn được lực lượng, phải giấu nhẹm được ý đồ chiến lược của ta mà không mất đi sĩ khí đánh giặc, nuôi dưỡng lòng dân không khiếp sợ để tạo cơ hội phản công sau này. Các tướng lĩnh kiệt xuất triều Trần thời ấy tuy tác chiến độc lập và không thể có thông tin nhanh như thời hiện đại nhưng dường như họ có thuật tâm truyền và thực thi các ý đồ đã định hết sức chính xác và quả cảm. Chính điều này đã góp phần tạo nên những võ công của dân tộc Đại Việt. Trong tác chiến với cánh quân của địch tràn vào hướng Tây Bắc, Trần Nhật Duật đã bảo toàn được lực lượng, từng bước lui binh chiến thuật về Bạch Hạc (Việt Trì ngày nay), làm lễ tuyên thệ nâng cao sĩ khí, nắm vững ý đồ tác chiến toàn cục và đặc biệt là luôn tin tưởng vào sự tất thắng của đội quân chính nghĩa.

Trong chiến công lừng lẫy Hàm Tử (nay thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên) khi ông là người được giao tổng chỉ huy trận đánh với sự tin tưởng tuyệt đối của hai vua và Trần Quốc Tuấn đánh thắng địch mạnh tạo đà cho chuỗi chiến thắng tiếp theo đuổi giặc Bắc ôm đầu máu ra khỏi biên giới Đại Việt. Cục diện chiến tranh trước trận Hàm Tử, ta và địch đang ở thế giằng co. Khi ấy địch luôn nghĩ chúng mạnh hơn ta kể từ khi Toa Đô phá vỡ ải Nghệ An đang tính nước cờ hội sư với Thoát Hoan tại đất thang mộc Thiên Trường cũng là ý đồ bắt sống hai vua cùng toàn bộ bộ chỉ huy vương triều Trần. Khi ấy Trần Quang Khải đã có những chiến thắng cục bộ trong tác chiến với đội quân Toa Đô sau khi giặc phá vỡ cửa ải bắt đầu có phần mệt mỏi, khinh địch.

Khi ấy, với đầy đủ thông tin tình báo và diễn biến từ các mặt trận, Trần Quốc Tuấn đã nghĩ tới một cuộc tổng phản công nhưng vấn đề là phải có một chiến thắng mang tính đột phá khẩu ngay trên đất Bắc và chiến thắng đó phải đủ sức làm thay đổi cục diện chiến tranh mang thế có lợi cho ta. Trong số các tướng lĩnh tài danh lúc ấy, Trần Quốc Tuấn và hai vua đã trao trọng trách cho Trần Nhật Duật đánh trận then chốt này, đánh thẳng vào Hàm Tử. Hàm Tử khi ấy bao gồm toàn bộ binh thuyền, quân tướng và một bộ phận sinh lực quân được Thoát Hoan cử đến do nguyên soái Toa Đô, hổ tướng Ô Mã Nhi cùng hàng chục viên tướng lão luyện chỉ huy.

Nhận mệnh lệnh lên đường, Trần Nhật Duật ngả cờ im trống lặng lẽ tiến quân. Bộ phận tiền quân xuất phát trước đó gom các chiến thuyền đã được giấu trong dân trong cuộc lui binh chiến thuật. Sức mạnh lòng dân thật lớn lao như trời biển. Không những không thiếu một chiếc thuyền nhỏ nào mà dân còn đóng sẵn hàng trăm chiếc thuyền sung cho đội quân chính nghĩa. Nơi các đình chùa, nhân dân nô nức sửa soạn tòng quân. Khí giới, quân nhu nhiều như nước chảy và đặc biệt là khí thế đánh giặc thì vô cùng sôi sục. Nhận mệnh lệnh lên đường với hơn một vạn quân nhưng khi đến Hàm Tử thì đội quân của Trần Nhật Duật đã lên tới trên năm vạn người với gần bốn trăm thuyền chiến lớn nhỏ. Chiêu Văn vương vô cùng xúc động trỏ xuống lòng sông thề rằng: "Ta sẽ đại phá địch ở khúc sông này. Thề sống chết với giặc ở đây. Các ngươi hãy nhớ lấy".

Tiếng hô sát Thát vang rền rờn rợn mặt sông. Đội Tống binh của tướng Triệu Trung đang chuẩn bị nhận lệnh tiên phong đánh địch. Cũng chính lúc ấy, vương nhận được thông tin toàn bộ hải thuyền của Toa Đô đang tiến đến gần và bọn chúng vẫn chưa biết đại quân ta sẵn sàng nghênh chiến. Bình tĩnh để đoàn thuyền nặng nề của nguyên soái lừng danh Toa Đô tiến hẳn vào trận địa, Trần Nhật Duật mới cho nổ pháo lệnh và trút đại bác lên thuyền địch. Quá bất ngờ, quân Toa Đô lúng túng kinh hãi không hiểu quân nhà Trần ở đâu như từ trên trời rơi xuống, dưới lòng sông chui lên nhan nhản trút bão lửa xuống đầu chúng. Càng kinh hãi hơn khi sau những loạt đại bác là một đoàn quân Tống, quần áo Tống, cờ hiệu Tống ào ạt, vun vút trên những thuyền nhỏ lăn xả vào soái thuyền Toa Đô. Quân ta càng đánh càng hăng, giặc càng đánh càng núng thế.

Trong lúc giặc thập phần nguy ngập thì Ô Mã Nhi kịp đến viện trợ Toa Đô. Đã có tính toán từ trước, Trần Nhật Duật tung đội quân do hổ tướng Nguyễn Khoái dẫn đầu xông thẳng vào đoàn quân cứu viện của Ô Mã Nhi với khí thế không gì cản nổi. Trận đánh ngày càng ác liệt, tỷ lệ quân số ta và địch sít soát nhau nhưng ta dần thắng thế vì lòng quân mỗi lúc một hăng và dân binh ùn ùn kéo đến tiếp viện. Kết thúc trận đánh, ta tiêu diệt và bắt sống địch ước chừng hơn ba vạn, chiến thuyền gần hai trăm, binh khí chất cao như một ngọn đồi, Toa Đô và Ô Mã Nhi phải bỏ lính chạy tháo thân gây nên một thảm cảnh kinh hoàng cũng là tiền đề cho những chuỗi thất bại kế tiếp…

Trần Nhật Duật có trên năm mươi năm làm tướng và giữ những trọng trách của triều đình liên tiếp năm triều vua: Trần Thánh Tông; Trần Nhân Tông; Trần Anh Tông; Trần Minh Tông; Trần Hiến Tông, lập nhiều công lao to lớn. Bản thân ông là một tấm gương sáng về tài trị quốc và đánh giặc, một nền tảng quan trọng về nghệ thuật quân sự Việt Nam, một người hiền có nhiều công trạng trong gây dựng, phát triển các sắc màu văn hóa Đại Việt về văn học, âm nhạc, ngôn ngữ. Nhiều thành tựu về âm nhạc, múa hát dân tộc đến hôm nay vẫn còn mang dấu ấn sáng tác của ông. Năm 1302, ông được phong Quốc công Thái úy. Năm 1324, được phong Tá thánh Thái sư. Ông mất năm 1330, thọ 76 tuổi, một tuổi thọ được cho là cực hiếm đối với thời bấy giờ cho thấy sự tráng kiện về tinh thần và thể chất được rèn luyện nghiêm ngặt của ông

Phùng Văn Khai
.
.