“Tinh anh phát tiết” hay ẩn ức trong nghệ thuật?

Chủ Nhật, 26/09/2021, 13:53

Tại sao một số nhà văn lại viết và nghĩ quá nhiều những chuyện không phải của họ, những họa sĩ lại vẽ điên cuồng, những diễn viên sa  đọa vì không thoát nổi vai diễn và có những người sẽ tự sát nếu không được chơi nhạc? Tại sao đại văn hào Áo Thomas Bernhard lại có thể nguyền rủa, mỉa mai trong suốt mấy trăm trang dài trong “Diệt vong”, biến tác phẩm trở thành một kiệt tác của sự căm thù?

Dân gian luôn lưu truyền cái nhìn rất ngộ nghĩnh về những nghệ sỹ: họ khác đời, họ lập dị và họ “hâm”. Nhưng cái hâm của họ chứa một chút gì đấy siêu nhiên và hấp dẫn. Thật ra, mọi con người đều chứa bên trong mình một căn buồng tối bí ẩn, đó chính là những ẩn ức bị kìm nén. Điều khác biệt chỉ là, ở các nhà văn hay nghệ sỹ, họ đưa căn buồng tối ấy ra, làm cho công chúng cảm thấy vừa gần gũi lại vừa kì quái. Và một số nghệ sỹ lớn, khi có những căn buồng tối mênh mông không thể kiểm soát, họ trở nên cực đoan và vĩ đại, hoặc sa đọa và thảm hại phi thường.

john-paul-2.jpg -0
John Lennon và Paul McCartney khi còn rất trẻ.

Trong số nhiều quan điểm nghệ thuật phổ biến, có hai dạng quan niệm về nhu cầu làm nghệ thuật: hoặc nghệ thuật là một nhu cầu tự thân, hoặc nghệ thuật là một công cụ, để phóng chiếu bản ngã cá nhân, khai phá và giải tỏa ẩn ức tinh thần. Hai quan niệm này không đối nghịch nhau như bề ngoài. Bạn sẽ thấy nhiều nghệ sỹ nói: tôi không hiểu vì sao mình lại làm nghệ thuật.

Thậm chí, anh ta tự nhiên cảm thấy phải viết, mặc dù không có nỗi đau gì cụ thể, mặc dù đã đủ cơm ăn áo mặc, tình cảm và bạn bè, thậm chí danh tiếng cũng có luôn. Vâng, Haruki Murakami từng trả lời New York Times trong một bài phỏng vấn năm 2020 y hệt như vậy. Họ viết vì có nhu cầu được viết, họ chơi nhạc vì cảm thấy việc đó là việc duy nhất thú vị. Tức là không có gì bí mật phía sau cả.

Ở quan niệm thứ hai, chúng ta cũng sẽ thấy một điều hiển nhiên: rất nhiều nghệ sỹ trở thành nghệ sỹ vì họ có niềm riêng. Có lần tôi hơi bất ngờ khi tự thống kê các bạn bè làm nghệ thuật đương đại của mình: gần như tất cả, không trừ một ai, có vấn đề về tuổi thơ và gia đình. Họ cần xây thế giới tinh thần của họ để trú ẩn, và đột nhiên, nếu họ có một tài năng thiên bẩm về sáng tạo, họ sẽ kết hợp cả hai thành nghệ thuật. Đồng thời, họ chia sẻ nghệ thuật với công chúng, không phải để nổi tiếng, mà trước hết vì họ cần những sợi dây tinh thần. Nhu cầu được công nhận hay nổi tiếng sẽ đến sau.

Trước hết, mặc dù chúng ta có “Lý thuyết chấn thương” trong triết học - chẳng hạn như E. Levinas hay Hanna Arendt, nhưng thực ra cũng không có các nghiên cứu xã hội học nào xác thực nổi việc vì đâu một cá nhân lại “đổ đốn” ra làm nghệ thuật. Nhưng có thể chắc chắn rằng: ẩn ức không hẳn đóng vai trò tiên quyết và then chốt trong nghệ thuật, nhưng nó là một trong những thành tố không kém quan trọng thúc đẩy tài năng nghệ thuật được “phát tiết”. Nếu không có nỗi đau riêng, có thể một nửa số nghệ sỹ yêu quý của chúng ta sẽ chơi điện tử thay vì sáng tác.

Ba tác động qua lại của ẩn ức và nghệ thuật

Mối quan hệ giữa ẩn ức và nghệ thuật vẫn còn rất phức tạp. Tuy nhiên trong khuôn khổ bài báo nhỏ, chúng ta sẽ tạm thấy một số điều sau: thứ nhất, ẩn ức thúc đẩy nghệ thuật. Thứ hai, nghệ thuật giúp giải tỏa một số ẩn ức cá nhân, giúp người nghệ sỹ tìm được cân bằng. Thứ ba, điều này đáng chú ý:  nghệ thuật giúp ẩn ức được khai phá thêm các tầng bí ẩn của nó. Cả ẩn ức và nghệ thuật đều là những hành trình, chúng không đứng yên một chỗ, mà di động và tương tác qua lại với nhau.

“Tinh anh phát tiết” hay Ẩn ức trong nghệ thuật? -0
Khi đã trưởng thành, tôi ngưng thói quen phán xét người khác…

Ở điểm thứ nhất, câu chuyện về việc có ẩn ức, rồi biến dạng, trở thành một phi thường luôn là câu chuyện gây được tò mò. Hàn Mặc Tử có thể nói là kết tinh từ cô đơn tột cùng và những nỗi đau bệnh tật thể xác - suy cho cùng có cả vĩ đại lẫn tầm thường để đạt đến những kiệt tác. Hồ Xuân Hương như thế nào lại có những vần thơ ấy? Và Joker, một nhân vật hư cấu, trở thành niềm yêu thích của không ít bộ phận công chúng, với những độc tố tích tụ trong tinh thần - biến hắn thành một biểu tượng của ngông ngạo. Trịnh Công Sơn cũng không thoát khỏi cái nhìn “ẩn ức luận”.

Những câu chuyện ấy hấp dẫn công chúng vì đó cũng là phiên bản của câu chuyện tái sinh trong huyền thoại: vút lên từ tro tàn, con phượng hoàng bay lên. Chúng ta có thể thấy trong các chuyện trên, không chỉ ẩn ức thúc đẩy nghệ thuật, mà bản thân người nghệ sỹ bay xa hơn khỏi mục đích giải phóng ẩn ức ban đầu, để tiếp tục đi đến các tham vọng nghệ thuật cao hơn. Đồng thời, cao lên cũng là lúc sâu xuống. Nghệ thuật càng bay cao thì ẩn ức càng được đào sâu tiếp: Hồ Xuân Hương không chỉ có ẩn ức dục tính, ở tầng tiềm thức hơn, đó là khát vọng của phụ nữ trong xã hội.

Ẩn ức không chỉ có tác dụng trong nghệ thuật, mà còn ở nhiều nghề khác. Bản chất ẩn ức là một vùng bí ẩn và khó kiểm soát: nó được bung vỏ theo cách ngẫu nhiên, tình cờ phóng chiếu vào chỗ nào thì con người phải chịu ở chỗ ấy. Đối với nghệ thuật, ẩn ức không chỉ có tác động trực tiếp như trên mà thậm chí quan trọng hơn cả là các tác động gián tiếp. Ẩn ức phát triển cho người nghệ sỹ những cá tính xã hội riêng, làm cho họ trở nên quan tâm với vấn đề này thay vì vấn đề kia, và giúp họ mài sắc một cái nhìn cá biệt có thể áp dụng cho nghệ thuật. Và vẻ đẹp là ở chỗ đó: những ẩn ức dẫn những người nghệ sỹ đến các phong cách khác nhau, dù có chung một lĩnh vực.

Một câu chuyện khác thường gây tranh luận: thông điệp nghệ thuật và biểu hiện nghệ thuật, cái nào quan trọng hơn? Thông điệp nghệ thuật thường đại diện cho mặt lý tính của tác giả, và ngược lại, các biểu hiện nghệ thuật lại được kết tinh từ tiềm thức sáng tạo. Người ta nói rằng nhà văn lớn ở chi tiết chứ không lớn ở cả câu chuyện. Và đây là điểm có thể thấy, các ẩn ức cá nhân riêng, thông qua tiềm thức sáng tạo, sẽ giúp một nghệ sỹ có thể kiến tạo ngôn ngữ riêng như thế nào.

Ẩn ức và nghệ thuật: bạn và thù

Ẩn ức và nghệ thuật gặp gỡ nhau và có với nhau những mối quan hệ bất ổn định. Một ẩn ức tiêu cực, tức là một mặc cảm, nếu được phóng chiếu đúng cách bằng một tài năng nghệ thuật, vẫn sẽ thành một tác phẩm lớn. Câu chuyện ganh đua của John Lennon và Paul McCartney trong ban nhạc The Beatles là ví dụ điển hình. Những công kích ngấm ngầm, thậm chí những sáng tác hướng về nhau, quyết ăn thua với nhau của họ đã tạo nên nhiều nhạc phẩm lớn, nổi tiếng nhất về mức độ “nói toạc” có lẽ là Jealous Guy (Kẻ ganh tị).

Ngược lại, nghệ thuật có thể làm cho ẩn ức trầm trọng hơn. Ta không lạ gì các diễn viên không thể thoát được vai diễn: vấn đề không nằm ở các vai diễn hay bản thân kịch bản, vấn đề ở chỗ, sẵn trong người diễn viên ấy có hình ảnh của nhân vật, và khi được sống với nhân vật, anh ta hoặc cô ta trong một giờ linh ngắn ngủi được làm chính mình. Và không tài nào quay lại sống đời bình thường được nữa. Chúng ta vẫn thường biết câu chuyện của diễn viên Hoàng Hồng Nhị trong “Em còn nhớ hay em đã quên” của đạo diễn Nguyễn Hữu Phần, người đã không thể tựu thành trong phần đời tiếp theo, chỉ vì vai ca sỹ lấy từ biểu tượng danh ca Khánh Ly ấy đã ám ảnh cô quá nhiều.

Nghệ thuật là những gì kì vĩ và phi thường. Ẩn ức cũng vậy, nếu nó đủ kì vĩ và phi thường, tức khắc nó sẽ tìm đến nghệ thuật, và hai bên đưa ra một thương lượng lịch sử: bên nào thắng thì nghệ sỹ sẽ chịu kết quả tương ứng. Ẩn ức của những kẻ giết người hàng loạt quá lớn, dẫn đến họ sắp xếp các vụ án rùng rợn của mình thành các tác phẩm nghệ thuật theo quan điểm của riêng họ. Đó là trường hợp mà tham vọng nghệ thuật cũng như ẩn ức đã vượt xa ranh giới đạo đức, trở nên khủng khiếp.

Không ít nhà văn viết truyện để công kích nhau hoặc giải phóng những ẩn ức tầm thường ở bên trong họ, khiến cho văn chương phải thoái nhường cho những phô diễn phi nghệ thuật. Và ẩn ức tiếp tục lên tiếng bào chữa: viết cảnh sex, nhưng gọi đó là giải thiêng. Viết để hạ bệ người khác, nhưng gọi đó là nhìn vào mặt tối xã hội.

Như vậy, việc thoát khỏi ẩn ức, hoặc có một mối quan hệ hòa nhã với nó, thậm chí lợi dụng nó để giúp đỡ cho nghệ thuật của mình, chính là một lý tưởng quan trọng của người nghệ sỹ. Chính nghệ thuật, chứ không gì khác, chính cái nhu cầu tự thân đối với nó, sẽ giúp con người hệ thống hoá các ẩn ức của mình. Và nghệ thuật không phải chỉ để giải phóng ẩn ức, mà là giúp con người nhìn thấy, từ một khoảng đủ xa, lòng đại dương tăm tối vĩnh cửu trong linh hồn của chính mình.

Đức Anh Kostroma
.
.