Sắp xếp, sáp nhập đại học Việt Nam theo hướng nào?
Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đã yêu cầu sáp nhập, giải thể các cơ sở giáo dục đại học không đạt chuẩn; nghiên cứu chuyển một số trường đại học về địa phương quản lý để đáp ứng tốt hơn yêu cầu đào tạo nhân lực của địa phương...
Hiện cả nước có hơn 260 cơ sở giáo dục đại học (chưa kể các trường thuộc khối quốc phòng - an ninh) bao gồm 2 đại học quốc gia, 3 đại học vùng, 5 đại học khác và 255 trường đại học, học viện, trong đó 171 cơ sở giáo dục đại học trực thuộc các bộ, ngành, cơ quan Trung ương; 26 cơ sở giáo dục đại học trực thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 77 cơ sở giáo dục đại học tư thục.
Vấn đề đặt ra là nên sắp xếp, sáp nhập các trường đại học như thế nào để hướng tới một hệ thống quản trị hiệu quả, tinh giản và phù hợp bối cảnh mới?

Những kinh nghiệm quốc tế
Trên thế giới, việc sắp xếp, hợp nhất các cơ sở giáo dục đại học không phải là điều mới. Trung Quốc từng thực hiện một đợt sáp nhập rất mạnh mẽ, khi nhiều trường nhỏ được hợp nhất để hình thành những đại học trọng điểm, có thương hiệu quốc tế.
Giai đoạn 1996-2001 có 385 cơ sở giáo dục đại học ở Trung Quốc được sáp nhập thành 164 cơ sở. Làn sóng này đạt đỉnh vào năm 2000, khi 203 cơ sở giáo dục đại học sáp nhập thành 79 cơ sở thông qua 105 cuộc sáp nhập. Có trường hợp sáp nhập nhiều cơ sở chỉ trong một lần, cũng có trường được hình thành từ kết quả của nhiều lần sáp nhập. Nhiều trường đại học vốn thuộc quản lý của nhiều bộ, ngành khác nhau được chuyển về Bộ Giáo dục Trung Quốc, phối hợp chính quyền địa phương.
Việc sáp nhập hình thành các đại học tổng hợp, thúc đẩy giảng dạy và nghiên cứu liên ngành và đa ngành, cải thiện chất lượng học tập của sinh viên. Các cơ sở đại học có vị thế tốt hơn, thể hiện qua số lượng lẫn chất lượng sinh viên, cùng với nguồn quỹ nghiên cứu mà các trường này thu hút được.
Chẳng hạn, việc sáp nhập Đại học Y Thượng Hải vào Đại học Phúc Đán, tháng 4/2000, đã tạo nền tảng để Phúc Đán hướng tới mục tiêu trở thành cơ sở giáo dục đẳng cấp thế giới. Vốn là một trường đại học trọng điểm quốc gia trong nhiều lĩnh vực như nhân văn, khoa học xã hội, tự nhiên, kỹ thuật và thương mại, song Phúc Đán lại thiếu ngành y - vốn là thế mạnh của Đại học Y Thượng Hải. Sau sáp nhập, tỉ lệ học viên sau đại học so với số sinh viên bậc đại học của Phúc Đán tăng mạnh, từ 46% năm 1998 lên 62% năm 2001, tương đương với các trường đại học nghiên cứu hàng đầu thế giới. Năng suất và tài trợ cho việc nghiên cứu cũng tăng lên, trong đó số lượng công bố quốc tế tăng đáng kể.
Hàn Quốc cũng triển khai các chương trình tái cấu trúc, nhằm khắc phục tình trạng manh mún, phân tán nguồn lực, qua đó nâng cao sức cạnh tranh. Tại Hàn Quốc, sáp nhập đại học đã trở thành xu thế tất yếu do thực trạng dân số giảm nhanh. Xu hướng này cùng với việc chuyên môn hóa đại học ở Hàn Quốc được thúc đẩy nhờ gói hỗ trợ "glocal" của chính phủ. Chính sách này, kết hợp giữa yếu tố toàn cầu (global) và địa phương (local), hướng tới thu hút nhân tài và phát triển kinh tế vùng trong thời kỳ toàn cầu hóa.
Sắp xếp thế nào cho phù hợp thực tế?
Từ thực tế những tồn tại trong đào tạo đại học tại Việt Nam hiện nay, theo tôi cần thay đổi theo hướng:
Thứ nhất, nên hình thành các cơ sở giáo dục đại học lớn, đại học đa tầng. Trong giáo dục đại học có các khái niệm cần phân biệt rõ: Đại học tinh hoa, đại học vùng và đại học địa phương, đại học ngành vì mỗi loại đại học có sứ mệnh riêng. Biện pháp khả thi hiện nay là xây dựng hệ thống 3 tầng rõ ràng: Đại học quốc gia giữ vai trò tinh hoa; đại học vùng phục vụ một khu vực rộng; đại học địa phương chỉ đảm trách đào tạo nhân lực cho tỉnh, thành phố; đại học ngành như đại học công an, đại học quân sự, đại học kiểm sát, đại học tòa án... chỉ đảm trách đào tạo nhân lực cho ngành, lực lượng.
Sáp nhập đại học theo mô hình tập đoàn giáo dục, nơi toàn bộ hệ thống vận hành như một dây chuyền sản xuất tri thức, thay vì mỗi trường như một hộ gia đình tự loay hoay làm tất cả. Trong mô hình này, các trường đại học địa phương, đại học ngành đảm nhận khâu đào tạo đại cương và cơ sở chuyên ngành: kiến thức nền tảng, ngoại ngữ... ở mức độ cơ sở, đủ để tham gia thị trường lao động địa phương, ngành.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng được đòi hỏi của thời đại kinh tế tri thức và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cần giảm số cơ sở giáo dục đại học hiện nay từ 264 xuống khoảng 100-130 cơ sở giáo dục đại học.
Theo quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 2/2025, sẽ hình thành các trung tâm giáo dục đại học lớn, khoảng 50-60 cơ sở giáo dục đại học đào tạo tới trình độ tiến sĩ; sắp xếp thu gọn một số cơ sở giáo dục đại học công lập; tổ chức lại các trường đại học sư phạm về thể dục, thể thao, nghệ thuật. Tái cấu trúc và phát triển các trường đại học thành các cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực.
Tập trung đầu tư cho các đại học quốc gia, đại học vùng để có các đại học mạnh đúng nghĩa, trong trường đại học có các viện nghiên cứu, nhóm nghiên cứu mạnh. Ngoài 2 đại học quốc gia là Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh; 3 đại học vùng: Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, hiện nay phát triển thêm 3 đại học vùng là Đại học Tây Bắc, Đại học Cần Thơ, Đại học Tây Nguyên.
Chỉ những tỉnh, thành phố có công nghiệp phát triển, các tập đoàn kinh tế lớn mới cho phép thành lập trường đại học. Sáp nhập các đại học nhỏ, yếu, đào tạo đơn ngành trên cùng địa bàn và khu vực vào 2 đại học quốc gia, các đại học vùng. Mạnh dạn giải tán các trường đại học không đủ diều kiện. Trước mắt thu hẹp lại các trường đại học sư phạm, đại học luật, đại học y tế để rút kinh nghiệm ra các đại học khác.
Để tăng cường năng lực quản trị quốc gia, quản trị địa phương, phát triển khoa học công nghệ cần tăng cường các cơ sở giáo dục đại học đào tạo về quản trị, quản lý, đào tạo các ngành mũi nhọn như an ninh mạng, bán dẫn, công nghệ cao... Nghiên cứu chuyển một số trường đại học thuộc khối Trung ương, do bộ, ngành quản lý về địa phương. Sáp nhập các trường đại học ở địa phương vào trường Trung ương, hay có thể các trường thuộc bộ, ngành nhập với nhau, nhiều trường địa phương nhập vào nhau. Các trường đại học quy mô quá nhỏ, không đạt tiêu chuẩn... sẽ bị giải tán.
Sáp nhập các trường dạy nghề vào các đại học quốc gia, đại học vùng, đại học địa phương, đại học ngành để tạo sự liên thông trong đào tạo phổ thông-đào tạo nghề và đào tạo tinh hoa.
Thứ hai, kết hợp hài hòa giữa tinh, gọn với tự chủ cao, tăng cường quản trị đại học. Nếu một số ngành như Quân đội, Công an, Hải quan v.v... quản lý nhà nước chủ yếu theo ngành và có kết hợp quản lý nhà nước theo lãnh thổ thì quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo chủ yếu là quản lý theo lãnh thổ và có kết hợp quản lý theo ngành. Hiện trong số gần 260 trường đại học ở Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ quản lý trực tiếp chưa đến 50 trường. Chưa phân tách rạch ròi giữa quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo và các hoạt động giáo dục, đào tạo cụ thể thuộc thẩm quyền nhà trường và hiệu trưởng, vì vậy còn lẫn lộn giữa quản trị quốc gia, quản trị địa phương. Do đó, khi chuyển các trường đại học về địa phương quản lý cần đặc biệt lưu ý tới điều này.
Về công tác quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục Đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần điều chỉnh theo hướng giảm bớt những nội dung can thiệp trực tiếp, thực hiện phân cấp, phân quyền, ủy quyền nhiều hơn. Nguyên tắc là "nắm chắc cái cần nắm, buông dứt khoát cái cần buông". Các trường đại học cần được trao quyền tự chủ mạnh mẽ hơn trong học thuật, tài chính, khoa học, đào tạo nhưng trách nhiệm quản trị cũng phải rõ ràng hơn.
Thứ ba, ưu tiên hiện đại hóa các trường đại học, xây dựng các viện nghiên cứu, nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường đại học. Có lộ trình hiện đại hóa đào tạo đại học, được thể hiện trên những mặt cơ bản: hiện đại hóa chương trình đào tạo; hiện đại hóa cơ sở vật chất của các nhà trường và hoạt động tổ chức giảng dạy; hiện đại hóa nguồn nhân lực của các nhà trường. Tổ chức kiểm định quốc tế trường đại học và toàn bộ các chương trình đào tạo. Tăng cường ứng dụng công nghệ số, nhất là trí tuệ nhân tạo trong toàn hệ thống giáo dục đại học theo hướng xây dựng các đại học thông minh với nhiều ngành đào tạo mũi nhọn về khoa học và công nghệ như công nghệ thông tin, an ninh mạng, công nghệ chế tạo máy, công nghệ kỹ thuật điện - điện tử, công nghệ thực phẩm và công nghệ kỹ thuật ô tô, kỹ thuật hạt nhân, kỹ thuật bán dẫn, công nghệ môi trường...
Xây dựng các trung tâm, viện nghiên cứu mạnh trong các cơ sở giáo dục đại học. Nhà nước giao các cơ sở giáo dục đại học lớn chủ trì các chương trình khoa học - công nghệ trọng điểm quốc gia. Khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học dạy và học bằng tiếng Anh. Trước mắt, đến năm 2030, hiện đại hóa Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, một số trường kỹ thuật và một số học viện, nhà trường thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an.
Phát huy xây dựng các viện nghiên cứu mạnh, các nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường đại học như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Đại học Bách khoa Hà Nội v.v... đã tiến hành.
Cùng với đó, cần tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo để xây dựng các trường đại học quốc tế Việt Nam; khuyến khích đầu tư nước ngoài trong giáo dục và đào tạo tại Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài. Khuyến khích các trường đại học uy tín của nước ngoài đặt cơ sở, chi nhánh tại Việt Nam.