Đầu tư và tài trợ cho văn hóa: Làm thế nào để sinh lời?

Thứ Sáu, 28/02/2025, 07:58

Phát triển văn hóa không chỉ gìn giữ giá trị truyền thống mà còn tạo ra lợi nhuận kinh tế bền vững và nâng cao giá trị xã hội. Vì vậy, để văn hóa xứng với tiềm năng "con gà đẻ trứng vàng" trong giai đoạn hiện nay thì việc đầu tư và tài trợ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nhiều kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này đã được các nhà nghiên cứu, các chuyên gia đưa ra tại hội thảo do Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia phối hợp cùng các đơn vị tổ chức.

Tài trợ văn hóa ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn

"Công nghiệp văn hóa" giờ đây đã trở thành một khái niệm quen thuộc trong chiến lược phát triển của ngành văn hóa. Theo đó, ngành công nghiệp văn hóa bao gồm các lĩnh vực như nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, âm nhạc, xuất bản, thời trang, thiết kế chứa đựng nhiều tiềm năng có thể phát triển mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào nền kinh tế quốc dân.

Đầu tư và tài trợ cho văn hóa: Làm thế nào để sinh lời? -0
Bảo tồn văn hóa truyền thống là yếu tố quan trọng trong đầu tư văn hóa.

Tuy nhiên, Tiến sĩ Hà Huy Ngọc (Viện Kinh tế Việt Nam) cho rằng, thực trạng đầu tư và tài trợ văn hóa ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Dù đã có những nỗ lực ban đầu trong việc huy động nguồn lực và xây dựng cơ chế hỗ trợ nhưng sự hạn chế về ngân sách, thiếu sự liên kết giữa các bên liên quan và khoảng trống trong chính sách dài hạn đã khiến tiềm năng văn hóa chưa được khai thác tối ưu. Bên cạnh đó, các mô hình hiện tại đang chủ yếu tập trung và bảo tồn thay vì phát triển, khiến Việt Nam gặp khó khăn trong việc thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa sáng tạo.

Theo ông Ngọc, trong khi công nghiệp văn hóa đang là "con gà đẻ trứng vàng" của nhiều nền kinh tế thế giới thì ở Việt Nam, sau 6 năm (2016-2022) thực hiện "Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam" vẫn chưa có nhiều dấu hiệu khởi sắc. Ngay như ở Hà Nội, hầu hết các lĩnh vực công nghiệp văn hóa phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của Thủ đô. Ví dụ như Hà Nội đang sở hữu "kho tàng di sản" vô giá và phong phú với gần 6.000 di tích, 1 di sản văn hóa thế giới, gần 2.000 di sản văn hóa phi vật thể nhân loại...

Tuy nhiên, "kho tàng" này chưa có được sự đầu tư hiệu quả để phát huy giá trị. Việc bảo tồn văn hóa không đồng bộ, các dự án bảo tồn thường thực hiện rời rạc do thiếu ngân sách hay sự thay đổi chính sách. Tiến sĩ Ngọc ví: "Công nghiệp văn hóa của Thủ đô Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung vẫn như những dòng sông quanh co, chưa tìm được đường ra biển lớn".

Hay, ở lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật, bà Cao Ngọc Ánh (Nhà hát Tuổi trẻ) nêu thực trạng việc bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể còn gặp nhiều khó khăn về tài chính. Ví dụ, với đề án sưu tầm các điệu múa cổ của Hà Nội, nguồn kinh phí 547 triệu đồng cấp cho Hội Nghệ sĩ múa Hà Nội hằng năm chỉ đủ đáp ứng phần sưu tầm cơ bản như điền dã và viết tổng kết. Các hoạt động khác như lưu trữ, phổ cập tới công chúng thông qua tổ chức biểu diễn, xuất bản sách lại chuyển sang năm sau. Điều này khiến dự án bị kéo dài, chậm tiến độ hoàn thành và giảm đi sự nhiệt tình của các nhà nghiên cứu. Tương tự, mặc dù trên thế giới, nhạc kịch là loại hình nghệ thuật có lịch sử lâu đời và sự độc đáo riêng có đã trở thành sản phẩm nghệ thuật đắt giá của ngành công nghiệp biểu diễn với doanh thu cao thì Việt Nam chưa có trường đào tạo nghệ thuật bài bản cho loại hình này...

Tại Hà Nội, rạp hát đủ tiêu chuẩn quốc tế hiện chỉ có Nhà hát Lớn Hà Nội, Nhà hát Hồ Gươm... nên rất khó cho những đơn vị muốn tổ chức những đêm nghệ thuật chất lượng quốc tế.

Trong phát triển văn hóa thì sự đầu tư của chính phủ giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Trong nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Thị Thu Phương và PGS.TS Đỗ Thị Thanh Thủy (Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia) ở Pháp, ngân sách nhà nước cấp/đầu tư cho tài trợ công vẫn là nền tảng chính cho các tổ chức văn hóa tại đây. Đối với nhiều thiết chế văn hóa công lập, ngân sách nhà nước trung ương đóng góp 30% như các trường, bảo tàng, nhà hát, 70% còn lại là ngân sách địa phương chia theo cấp bậc như vùng, tỉnh, thành phố.

Tương tự, theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Trang (Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia) thì một trong những bài học quan trọng mà Việt Nam có thể học hỏi từ Hàn Quốc là việc gia tăng vai trò của đầu tư công trong lĩnh vực văn hóa. Chính phủ Hàn Quốc đã liên tục nâng tỷ lệ ngân sách dành cho văn hóa qua các năm với mục tiêu phát triển bền vững các giá trị văn hóa quốc gia. Ngân sách quốc gia cho văn hóa nghệ thuật tăng đáng kể từ 0,6% (năm 1998) lên 1,05% (năm 2005). Trong năm 2005, chỉ tính riêng lĩnh vực nghệ thuật biểu diên đã nhận được khoản ngân sách 168,2 tỉ won (tương đương 172,3 triệu USD). Chính phủ cũng đã xây dựng cơ sở hạ tầng như trung tâm nghệ thuật, trung tâm văn hóa đa chức năng như Seoul Arts Center và Korea Manhwa Museum...

Cần gắn với doanh nghiệp

Thúc đẩy hợp tác công - tư là yếu tố không thể thiếu trong phát triển văn hóa. Các doanh nghiệp lớn tại Hàn Quốc như Samsung, LG và Hyundai đã đóng góp tài chính cho các hoạt động văn hóa, tham gia việc phát triển các cơ sở văn hóa, bảo tàng và sự kiện nghệ thuật. Nhiều sự kiện văn hóa lớn như "Liên hoan phim quốc tế Busan" và các chương trình nghệ thuật khác của Hàn Quốc do Samsung là đối tác tài trợ chính. Tương tự, LG cũng tham gia tài trợ cho các triển lãm nghệ thuật và hỗ trợ các sáng kiến văn hóa cộng đồng. Hyundai hỗ trợ các dự án nghệ thuật đương đại và các sự kiện văn hóa quốc tế, tạo điều kiện cho nền văn hóa Hàn Quốc tiếp cận với công chúng toàn cầu.

Đầu tư và tài trợ cho văn hóa: Làm thế nào để sinh lời? -0
Việt Nam cần có nhiều hơn những nơi có thể tổ chức các chương trình đạt chuẩn quốc tế như Nhà hát Hồ Gươm.

Tương tự, Hy Lạp lại nổi tiếng với mô hình bảo trợ văn hóa xây dựng trên nền tảng sự kết hợp giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức tư nhân. Ví dụ, Chính phủ Hy Lạp tài trợ cho các dự án bảo tồn các di tích cổ, như các đền thờ Hy Lạp cổ đại tại Athens và Delphi. Các doanh nghiệp tư nhân tham gia bằng việc tài trợ cho các sự kiện văn hóa, triển lãm nghệ thuật và các dự án sáng tạo. Ví dụ như các công ty lớn như Cocacola HBC và Alpha Bank đã tài trợ cho các sự kiện văn hóa lớn như "Athens Epidaurus Festival" (Lễ hội Athens Epidaurus).

Theo đạo diễn, nhà sản xuất các chương trình Nguyễn Quốc Hoàng Anh thì trong công nghiệp văn hóa, doanh nghiệp giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Ông cũng đưa ra những ví dụ về các quốc gia đã hoàn thiện mô hình phát triển của ngành văn hóa. Ví dụ như ở ngành điện ảnh Mỹ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hollywood và các hãng phim tư nhân nhỏ khi đến Bervely Hill đã dựng nên tiền đề cho kinh đô điện ảnh thế giới Hollywood thì chính quyền tại các địa điểm đã giảm thuế từ 20% đến 40% với điều kiện là dự án phải sử dụng ít nhất 1 đối tác cung ứng tại địa phương.

Hay, ở ngành giải trí Hàn Quốc, CJ - từ một công ty sản xuất đường ăn, sau 20 năm nhận được sự ưu đãi của chính phủ về thương mại đã đầu tư mạnh mẽ cho công nghiệp văn hóa, trở thành doanh nghiệp dẫn đầu việc ăn, mặc, nghe, xem chơi của hàng triệu người dân Hàn Quốc và châu Á. Nếu không có "doanh nghiệp nghìn tỉ" trong công nghiệp văn hóa, chúng ta không thể có "nền công nghiệp văn hóa tỉ đô".

Chính sách ưu đãi thuế là mấu chốt để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực văn hóa. Theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Trang thì tại Hàn Quốc, các doanh nghiệp hoạt động tại khu vực này được hưởng ưu đãi thuế, bao gồm miễn thuế 100% trong 3 năm đầu và giảm 50% thuế trong 2 năm tiếp theo. Các doanh nghiệp đóng góp tài chính cho các dự án văn hóa có thể được giảm thuế. Điều này giúp họ có thêm động lực để tiếp tục hỗ trợ và tham gia các sáng kiến văn hóa. Chính phủ Pháp cũng khuyến khích tài trợ tư nhân thông qua các chính sách ưu đãi thuế. Các doanh nghiệp có thể khấu trừ 60% số tiền tài trợ khỏi thuế doanh nghiệp, tối đa 0,5% doanh thu hằng năm.

Chính vì vậy, trong nhiều năm, một số thương hiệu cao cấp như Louis Vuitton và Fondation Cartier đã từng là những nhà tài trợ lớn cho các tổ chức văn hóa nghệ thuật tại Pháp. Việt Nam có thể áp dụng chính sách ưu đãi thuế tương tự để khuyến khích các doanh nghiệp tài trợ cho nghệ thuật sẽ tạo động lực cho họ tham gia vào các sáng kiến văn hóa, từ đó giúp mở rộng nguồn tài trợ và hỗ trợ các dự án nghệ thuật sáng tạo trong nước.

Trong giai đoạn hiện nay, đầu tư và tài trợ cho văn hóa không thể thiếu ứng dụng công nghệ và truyền thông số. Việc sử dụng các nền tảng trực tuyến như YouTube, Netflix và Sptify đã đóng vai trò quan trọng trong việc đưa văn hóa Hàn Quốc ra thế giới. Đầu tư và tài trợ cho văn hóa có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát triển mạnh mẽ văn hóa, con người Việt Nam. Tuy nhiên, việc thực hiện cần những bước đi đồng bộ và hiệu quả mà các kinh nghiệm quốc tế sẽ là bài học gợi mở cho Việt Nam. 

Vân Phong
.
.