Thưởng phạt sao cho công bằng?
Trong tờ biểu dâng lên Vua Tự Đức, sau khi biên soạn xong tập “Đại Nam thực lục”, chính biên, đệ nhị kỷ, (thực lục về Thánh Tổ Nhân hoàng đế, tức Vua Minh Mạng), đã nhắc đến 5 điều khó trong việc chép sử mà Viên Sơn Tùng, một sử gia đời Tấn bên Trung Quốc, đã phàn nàn.
Trong 5 điều khó này thì điều thứ tư “Thưởng phạt không đúng lẽ phải” là điều mà các sử gia thời xưa vất vả khi biên chép. Cho nên, khi chép sử, bên cạnh việc khen chê, các sử gia cũng rất lưu ý đến chuyện thưởng, phạt của các bậc quân vương.
Ở nước ta, khi chép về chuyện vào đời Vua Lý Thái Tông, tháng 9 năm Minh Đạo năm thứ 2 (1043), khi nhà vua sai Ngụy Trưng đến châu Quảng Nguyên, ban cho Nùng Trí Cao đô ấn, phong làm Thái bảo, sử gia Lê Văn Hưu thời Trần đã bàn rằng: “Năm trước, Nùng Tồn Phúc phản nghịch, tiếm hiệu, lập nước, đặt quan thuộc, Thái Tông đã trị tội Tồn Phúc mà tha cho con là Trí Cao. Nay, Trí Cao lại noi theo việc trái phép của cha thì tội lớn lắm, giết đi là phải, nếu lấy lại tước và ấp phong, giáng là thứ dân, thì cũng phải. Thái Tông đã tha tội, lại cho thêm mấy châu quận nữa, ban cho ấn tín, phong làm Thái bảo, như thế là thưởng phạt không có phép tắc gì”.
Vị sử gia họ Lê kết luận: “Đó là vì Lý Thái Tông say đắm cái lòng nhân nhỏ của nhà Phật mà quên đi mất cái nghĩa lớn của người làm vua”.
“Thưởng phạt công bằng” cũng là mục tiêu mà các bậc quân vương luôn hướng đến trong đạo trị quốc. Do đó, sau khi Vua Lê Nhân Tông băng hà (năm 1459), khi viết bài văn bia tại Mục lăng, Học sĩ Nguyễn Bá Kỳ đã ca ngợi nhà vua: “Tôn sùng đạo Nho, xét những lời thiển cận, nhận những lời can trung, chăm nom chính sự, thận trọng thưởng phạt, coi trọng nghề nông, chú ý nền gốc, hết lòng thương dân, không thích xây dựng, không mê săn bắn, không gần thanh sắc, không ham tiền của, hậu với người bạc với mình, trong ấm ngoài êm”. Đó cũng là những lời ca ngợi hết mực dành cho bậc minh quân.
Không chỉ là trách nhiệm của bậc quân vương, mà với các bậc tể thần, thưởng phạt công bằng cũng là nghĩa vụ quan trọng. Như khi Lý Cao Tông lên ngôi sau khi Lý Anh Tông băng hà, Tô Hiến Thành là Thái phó, giúp vua trẻ trị nước. “Đại Việt sử ký toàn thư” chép rằng: “Hiến Thành quản Lĩnh cấm binh, nghiêm hiệu lệnh, thưởng phạt công bằng, người trong nước đều quy phục”. Nhờ có vị Thái phó làm rường cột, mà triều đình vững vàng, Chiêu Linh Thái hậu muốn mưu đồ phế bỏ nhà vua để đưa con mình là hoàng tử Lý Long Xưởng lên ngôi, cũng không thể nào hành động nổi.
Thưởng phạt công bằng không phải là điều dễ dàng. Như vào thời Vua Trần Hiến Tông, khi vua sai Hưng Hiếu vương dẹp người man Ngưu Hống. Hưng Hiếu vương tiến quân vào trại Trịnh Kỳ, đánh tan quân man, chém tù trưởng của họ là Xa Phần. Khi trở về, quân sĩ đều được ban thưởng. Hưng Hiếu vương viện dẫn việc Nhân Huệ vương đi dẹp ấp Nam Nhung khi trước, xin thưởng cả những người giữ thuyền.
Tuy nhiên, Thượng hoàng Trần Minh Tông nói rằng: "Khánh Dư đi đánh Nam Nhung, từ Nghệ An đi bộ mấy ngày, đến sông Nam Nhung mới đục gỗ làm thuyền. Đó là giữ thuyền trong đất của giặc, chứ không phải là giữ thuyền ở Nghệ An. Người giữ thuyền lần này thì khác thế. Vả lại, có thưởng tất phải có phạt, thưởng phạt thường phải có cả. Nếu người giữ thuyền muốn nhờ ở chiến thắng để lấy thưởng, giả sử người đi đánh bị chết thì người giữ thuyền cũng chịu chết chăng?".
Hưng Hiếu vương trả lời: "Nếu không có người giữ thuyền, trong quân mà nghe tin giặc lấy mất thuyền thì quân sĩ liệu có giữ vững được không?". Thượng hoàng phản bác lại rằng: "Nếu vậy thì trước hết phải thưởng cho những người trong triều mới phải, vì nếu kinh sư không yên thì quân sĩ có thể đi đánh giặc được không?". Đến đó thì Hưng Hiếu vương không trả lời được.
Ở thời chiến, thưởng phạt nghiêm minh có hiệu quả rất to lớn. Như vào thời gian cuối cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, mùa xuân năm 1425, khi Bình Định vương Lê Lợi, đóng ở hương Đa Lôi, huyện Thổ Du, (sau là đất Nam Kim, Nam Đàn), trấn Nghệ An, đã ra lệnh cho binh sĩ giữ nghiêm quân lệnh và kỷ luật. Sử chép: “Kỷ luật quân đội đã nghiêm chỉnh, tinh thần binh sĩ càng tăng thêm. Thưởng phạt thi hành, nên quân lính gan dạ quyết chiến. Nhân dân trong vùng đều dắt díu nhau tới, đông vui như đi chợ. Vua vỗ về phủ dụ, mọi người đều hân hoan vui vẻ”.
Khi có thiên tai, bậc quân vương xưa cũng thường cho rằng “Trời” giáng tai họa vì người làm vua chưa trọn đạo. Như thời Vua Lê Nhân Tông, mùa thu năm Thái Hòa thứ 10 (1452), khi có tai dị, nhà vua đã xuống chiếu tự trách mình rằng: "Mấy năm nay tai dị liên tiếp xảy ra, mùa màng liền năm mất mát. Muôn dân vạn vật, không sao sống nổi. Trẫm rất lo sợ điều đó. Thực là tự trẫm trên không biết thuận lòng trời, dưới không biết kính giữ phép cũ của tổ tông. Dùng quan không được người hiền, cai trị có nhiều thiếu sót nên mới đến nỗi thế. Nay, nghĩ cách chấm dứt tai biến, đem lại thuận hòa, không tuân theo phép cũ để bỏ hết tệ xấu có được không? Những việc nay đáng phải làm là dùng người tài giỏi liêm khiết, thải bỏ bọn tham nhũng, tiến hành thưởng phạt, miễn các loại thuế, xét việc oan uổng, chiếu cố những người không vợ, góa chồng, cô độc một mình".
Thưởng phạt công bằng cũng là cốt yếu trong việc thăng giáng trăm quan của các triều đình. Từ thời Lý, Trần đã ban hành quy định “khảo khóa”, đến kỳ hạn thì sẽ đánh giá các quan, ai làm tốt được thăng bổ, ai yếu kém bị giáng chức hay thải loại. Tuy nhiên, kỳ hạn khảo khóa thời xưa quá lâu, 7 đến 9 năm, khiến các quan khó được cất nhắc. Đến thời hậu Lê, kỳ hạn rút xuống còn 3 năm.
Vua Lê Thánh Tông năm 1471 từng có dụ rằng: "Phép khảo khóa cốt để phân biệt người hay kẻ dở, nâng cao hiệu quả trị nước. Đời Đường Ngu, 3 năm 1 kỳ xét công để thăng giáng. Nhà Thành Chu 3 năm 1 lần xét công để định thưởng phạt. Nay, nha môn trong ngoài các ngươi, người nào nhậm chức đã đủ 3 năm, phải báo ngay lên quan trên không được để chậm. Nếu quá 100 ngày mà không kê danh sách gởi đi thì tính số người chậm mỗi người phải phạt 1 quan tiền, kẻ nào theo tình riêng mà dung túng đều phải trị tội cả".
Khi Vua Lê Hiến Tông mới lên ngôi, năm Cảnh Thống thứ 2 (1499), đã ban hành sắc chỉ dụ các quan viên và quân sắc ở trong ngoài cả nước rằng: “Nước nhà ta dùng sức của dân, định ra phép nước; binh lính các phủ vệ trong ngoài phải mở rộng quy chế; bọn thợ thuyền lớn nhỏ càng phải coi trọng việc xét công lao. Trừng trị kẻ tham ô, lời dạy rất rõ ràng; khen thưởng người liêm cần, điển chương đã đầy đủ. Chăm chắm roi vọt răn đe, ngăn ngừa tư thông đút lót”.
Do đó, nhà vua tuyên bố về chính sách thưởng, phạt của mình như sau: “Trẫm mới lên ngôi báu, nghĩ cách trừ bỏ thói tệ, muốn đặt hình phạt nặng để chính sự buổi đầu được trong sạch. Nhưng, lại nghĩ: lấy hình phạt trừng trị kẻ gian là công cụ giúp việc trị bình; lấy miệng lưỡi thay cho búa rìu là lòng nhân chế ngự kẻ dưới. Vậy, đặc cách ban bố điều khoản mới, yêu cầu trừ bỏ thói quen xưa. Người nào biết thể theo ý trẫm, không bất lương thì được thưởng hậu để nêu khen; kẻ nào quen giữ thói cũ, không nghe lời răn dạy thì phạt nặng để trừng trị. Họa, phúc không có cửa nào, mọi người hãy lựa chọn cho kỹ”.
Giữa năm đó, viên Đô ngự sử là Quách Hữu Nghiêm cũng tâu rằng: “Thưởng hay phạt, ban hay cho đoạt lại, đó là quyền của đế vương trị thế. Thưởng đúng công thì người người đều được khuyến khích, phạt đúng tội thì ai ai cũng lấy đó làm điều răn đe. Cho nên, trong việc thưởng phạt, phải cho hết đạo chí công”. Những lời tâu này đều được Vua Lê Hiến Tông y theo.
Cái cách mà các vị Tham tụng Dương Trí Trạch, Phạm Công Trứ dâng lên Vua Lê Thần Tông, năm Vĩnh Thọ thứ 3 (1660), đại ý cũng vậy, nhưng chi tiết hơn: “Thuật trị nước là có văn, có võ, đạo trí trị phải thưởng phạt công minh. Các võ tướng phải xông pha chống giặc, bảo vệ nước nhà, nếu biết ước thúc nghiêm minh liều mình gắng sức, để làm nên sự nghiệp công lao thì tùy theo mức độ công lao mà xét thưởng. Nếu có kẻ dùng dằng nhát sợ, hành quân trái luật thì trị tội theo quân pháp. Luật khuyến khích, răn trừng như vậy, thật đã rất nghiêm. Còn văn thần thì phải giúp vua, thương dân, để tô điểm thái bình. Nếu biết thận trọng thanh liêm, chăm việc, ngay thẳng, công bằng, xứng với chức vụ thì tùy theo chính tích tốt đẹp ra sao mà khen thưởng. Nếu có ai thừa hành công việc hoặc xét hỏi kiện tụng mà không sửa đổi lỗi trước, lại bẻ cong luật pháp, ăn của đút lót, để chậm quá kỳ hạn, xét xử không đúng, vào bè kết đảng, vì ân nghĩa riêng mà nhận lời thỉnh thác, làm nhiều điều nhũng nhiễu, đến nỗi nát chính hại dân, tội nhẹ thì xử giáng bãi chức, tội nặng thì xử theo quân pháp, để trừ bỏ thói tệ, giữ nghiêm phép nước”. Những lời bàn xác đáng này đều được vua nghe theo.
Năm 1674, đời Vua Lê Thần Tông, chúa Tây Định vương Trịnh Tạc cũng từng ban dụ dạy con là Định Nam vương Trịnh Căn rằng: “Bổ quan thì tùy tài năng, xét công trạng để các quan đều xứng chức; tìm người thì xem ngôn hạnh, thử chính sự, để người hiền đều vào triều. Coi tướng thì dùng cả ân uy, để các tướng đều vui lòng làm việc; thương dân thì nhẹ bớt phú dịch, để dân đều sống thảo vui. Thưởng phạt quyền ở tay mình phải công bằng, tín thực; lễ nhạc là gốc của giáo hóa, phải đầy đủ, rõ ràng. Như thế thì chính sự mới được sửa sang, kỷ cương mới được chấn chỉnh. Văn đức thấm khắp mà vũ công hoàn thành; trong nước bình yên mà rợ ngoài sợ phục”.
Cho nên Vua Minh Mạng của triều Nguyễn, nhân một việc cụ thể, đã dụ bảo các đại thần Hoàng Kim Hoán, Lê Đăng Doanh, Bùi Đức Minh rằng: “Thưởng phạt là quyền lớn của vua, nếu có một việc không công bằng thì sao gọi là chính trị được. Vừa rồi, đình thần tâu về các đơn kiện, có người đáng phạt roi, đến khi Bộ Công xét nghĩ tâu lại thì xóa bỏ đi, trẫm cho là việc chưa làm, tạm khoan tha cho, từ sau đều nên cẩn thận”.