Mở kho cứu dân

Thứ Tư, 26/11/2025, 11:12

Khi hạn hán hay lũ lụt hoặc giặc giã mà dân đói kém, trách nhiệm của triều đình là giúp dân có cái ăn. Triều đình có nhiều cách: Mở kho công hay mua thóc của nhà giàu chẩn cấp cho dân nghèo hoặc vận động các nhà giàu làm việc thiện.

Việc mở kho chẩn cấp cho dân nghèo lần đầu tiên được chép trong sử sách nước ta có lẽ là vào thời Vua Lý Thánh Tông. Đó là năm Thần Vũ thứ 2 (1070), “Đại Việt sử ký toàn thư” cho biết, năm đó, tháng 4 xảy ra đại hạn, dân đói, nên triều đình “phát thóc và tiền lụa trong kho để chẩn cấp cho dân nghèo”.

Vì sự kiện này, mà sau khi Vua Lý Thánh Tông băng hà đầu năm 1072, khi bình luận về đức độ của nhà vua, sử thần Ngô Sĩ Liên đã viết rằng: “Lo dân thiếu ăn thì xuống chiếu khuyến nông, gặp năm đại hạn thì ban lệnh chẩn cấp người nghèo, trước sau một lòng, đều là thành thực” và cho rằng, vị vua này “Tuy có việc lầm lỗi nhỏ khác cũng vẫn là bậc vua hiền”.

trinh-sam.jpg -0
Chúa Trịnh Sâm từng thực thi nhiều biện pháp như trưng thu thóc của nhà giàu, phát chẩn cho người nghèo, tha thuế, khuyến khích lưu thông buôn thóc và sai quan đi dò hỏi về sự đau khổ của dân.

Việc chẩn cấp cho dân là trách nhiệm của bậc “chăn dân”. Vì trước đó, từ thời nước ta còn bị nhà Tùy đô hộ, năm 420, viên Thứ sử Giao Châu là Tuệ Độ cũng được sử sách Trung Quốc và nước ta khen rằng: “Mặc áo vải, ăn cơm rau, cấm thờ nhảm, sửa nhà học, năm đói kém thì lấy lộc riêng để chẩn cấp, làm việc cẩn thận chu đáo cũng như việc nhà, nên dân sợ mà yêu”. Nhưng, như vậy Tuệ Độ cũng chỉ dùng lộc riêng để chẩn cấp cho dân đói, chứ lúc đó quân đô hộ nhà Tùy chưa lập kho để trữ lương thực chăng?

Thời Vua Lý Cao Tông, tháng Giêng năm Thiên Tư Gia Thụy thứ 15 (1200), triều đình cũng đem thóc chẩn cấp cho dân nghèo. Nguyên nhân vì mùa thu năm trước, “nước to, lúa mạ ngập hết”.

Sang thời Trần, năm Trùng Hưng thứ 6 (1290), đời Vua Trần Nhân Tông, “Toàn thư” cho biết tình cảnh đáng thương: “Đói to, 3 thăng gạo giá 1 quan tiền, dân nhiều người bán ruộng đất và bán con trai con gái làm nô tỳ cho người, mỗi người giá 1 quan tiền”. Do đó, vua Trần đã xuống chiếu phát thóc công chẩn cấp dân nghèo và miễn thuế nhân đinh.

Năm Đại Trị thứ nhất (1358) đời Vua Trần Dụ Tông cũng xảy ra hạn hán nặng. “Từ tháng 3 đến tháng 7 hạn hán, sâu cắn lúa, cá chết nhiều”. Dù Trần Dụ Tông sau này bị đánh giá là vị vua ham ăn chơi, xa hoa quá mức, nhưng lúc đó cũng ban hành những chính sách cứu dân tiến bộ. Đó là tháng 8, khi hạn chưa dứt, nhà vua đã xuống chiếu khuyến khích nhà giàu ở các lộ bỏ thóc ra chẩn cấp dân nghèo. Vua cũng sai các quan ở địa phương tính xem số thóc bỏ ra là bao nhiêu để trả lại bằng tiền.

Đến năm Đại Trị thứ 5 (1362), cũng xảy ra hạn hán suốt từ tháng 5 đến tháng 7 (âm lịch). Vua Trần Dụ Tông sai soát tù, để xem có ai bị án oan sai thì tha bổng - biện pháp mà theo quan niệm của thời xưa là “tích đức”, sau đó trời đổ mưa to giải cứu cơn hạn. Vua cũng xuống chiếu miễn toàn quốc một nửa tô thuế năm ấy để giảm gánh nặng cho dân.

Thời Vua Trần Dụ Tông cũng có một chính sách tiến bộ khác khi có nạn đói trong nước là sai các nhà giàu dâng thóc để phát chẩn cho dân nghèo, ban tước theo thứ bậc khác nhau. Trước đó, những năm đầu thời Trần, khi cả nước kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn từng lệnh cho các nhà giàu xuất thóc lúa nuôi quân, nhưng những người đóng góp nhiều chỉ được ông phong làm “giả lang tướng”, tức là chức vụ danh dự, chứ không phải lang tướng thật.

Thời Lê trung hưng, sử cho biết tháng Giêng năm Chính Hòa thứ 16 (1695) đời Vua Lê Hy Tông, ở Thanh Hoa có nạn lụt, dân bị đói, triều đình đã cho trích một vạn quan tiền ở kho An Trường phát chẩn cho dân. Để cứu vớt dân, triều đình lại hạ lệnh cho các quan châm chước, bàn định chính sách cứu đói: giảm nhẹ, thuế hộ, hoãn việc xây dựng sửa chữa.

Theo bộ “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” của Quốc sử quán triều Nguyễn, thì khi vua Lê, chúa Trịnh khởi đầu cuộc trung hưng đánh nhà Mạc đã đặt hành tại (trụ sở triều đình) ở An Trường, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Thiên, (sau là huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa), ở đó có kho công chứa sẵn tiền và thóc, nên mới có sẵn để phát cho dân. Đến tháng Giêng năm Chính Hòa thứ 23 (1702), ở Thanh Hóa nước sông lên cao, vỡ đê phá hủy mùa màng nên dân bị đói. Triều đình lại cho trích một vạn quan tiền trong kho nội phủ, chia làm 2 phần: Một phần chẩn cấp cho nơi nào thóc lúa bị tổn hại; một phần chẩn cấp cho dân phu làm công việc hàn lấp khúc đê vỡ. Sau đó lại mở kho ở trấn lấy thóc phát chẩn dân bị đói và miễn các ngạch thuế đinh và hộ. Nhờ đó, khó khăn của dân cũng được giảm nhẹ.

Sang thời Vua Lê Dụ Tông, tháng Giêng năm Vĩnh Thịnh thứ 9 (1713), lại bị hạn hán, giá thóc gạo cao vọt, dân gian có người phải ăn cả cây cỏ, người chết đói đầy đường, làng xóm các nơi tiêu điều hiu quạnh. Vì thế, triều đình bàn thi hành việc chẩn cấp: hạ lệnh cho quan hoặc dân nộp thóc, sẽ lượng theo số thóc mà trao cho chức tước, hoặc phẩm hàm, rồi đem số thóc ấy phân phối phát chẩn cho dân nghèo. Chúa Trịnh Cương lại trích tiền để nội phủ phát chẩn cho dân kinh kỳ; trích 1 vạn quan tiền ở kho An Trường cấp đỡ cho dân Thanh Hoa; cân nhắc để xá tô thuế cho dân ở tứ trấn và Phụng Thiên (Thăng Long), Trường Yên, nơi nhiều nơi ít khác nhau.

Những kho công ở các trấn trong lúc nạn đói đã phát huy tác dụng khá hiệu quả. Năm 1724, khi Nghệ An bị nạn đói, giá gạo thình lình cao vọt, chúa Trịnh Cương đã hạ lệnh cho Trấn ty phát thóc trong kho Vĩnh khố chẩn cấp cho dân. Cũng năm đó, Thanh Hóa bị nạn đói, triều đình bỏ ra 4 vạn quan tiền, giao cho bồi tụng Nguyễn Hiệu đi phát chẩn cho dân.

Năm 1729, đời Lê đế Duy Phường, vào tháng 7 có nạn lụt lớn, nước sông Nhị (sông Hồng) dâng, đường đê nhiều chỗ bị vỡ, ruộng lúa của dân hư hại hết. Triều đình sai bọn thị lang Hồ Phi Tích đào sông Nghĩa Trụ để thoát nước, đồng thời mở kho thóc Vị Hoàng (Nam Định sau này) chẩn cấp cho dân bị thủy tai. Những ruộng cấy lúa mùa, bị ngập lụt được cấp cho thóc giống. Lại sai quan khuyến nông chia ra từng đạo đi khám xét, chia dân lưu vong làm 4 hạng, bàn định thi hành việc cứu vớt.

Tháng 3 năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741) đời Vua Lê Hiển Tông, dân Hải Dương bị nạn đói, triều đình hạ lệnh trích số thóc đong ở Sơn Nam lấy 10 vạn bát quan phát chẩn cho dân nghèo. Sử nhà Nguyễn cho biết, mỗi “bát quan” là 7 cáp và đếm được 84.000 hạt thóc mỗi bát. Năm đó, triều đình cũng hạ lệnh ban bố 4 điều răn bảo trong kinh và ngoài các trấn, để giảm bớt gánh nặng cho dân, trong đó điều thứ nhất là: Các thuyền buôn thóc gạo được thông hành mua bán, miễn cho việc nộp thuế. Điều thứ hai là: Miễn tiền lễ tạ, tiền khám xét cho dân nghèo bị kiện.

Tháng 5 năm đó, do vùng Đông Bắc hằng năm bị đói, triều đình hạ lệnh trích gạo công nấu cơm, cháo để phát chẩn cho dân. Để có thóc gạo, triều đình tiếp tục có lệnh để khuyến khích việc nộp thóc cứu đói. Nhân dân, người nào chuyển vận thóc đi bán hoặc nộp thóc, sẽ được bổ làm quan.

Đến tháng 8, dân vẫn đói to, phần nhiều phiêu tán khắp nơi. Triều đình bèn hạ lệnh lấy thóc trong kho phát chẩn cho dân phiêu tán ở tứ trấn; trong kinh kỳ cũng cứ 10 ngày phát chẩn một lần.

Năm Cảnh Hưng thứ 20 (1759), tháng 2, khi 2 trấn Thanh Hóa và Nghệ An bị nạn đói to, triều đình sai Tham tụng Hà Huân (tức Hà Tông Huân) đi ngay đến nơi thăm hỏi xem xét, hiệp đồng với viên quan ở trấn, tạm lấy tiền thông kinh (tiền kinh phí thi Hương của các thí sinh) và mộ nhà giàu nộp của, sẽ tùy phương tiện phát chẩn cho dân. Còn dân phiêu lưu ở 2 xứ này nếu có người nào đến kiếm ăn ở tứ trấn, sẽ đem tiền gạo chẩn cấp cho.

Biện pháp “đổi quan chức lấy thóc” cũng được chúa Trịnh Sâm áp dụng năm 1768, khi các trấn Nghệ An, Kinh Bắc, Sơn Tây, Sơn Nam bị đói, giá gạo cao vọt, nhân dân đói khổ, “một trăm đồng tiền không đủ một bữa ăn no”. Vị chúa này sai ti Hiến sát các trấn dò hỏi sự đau khổ ở dân gian, cấm các tuần ti và bến đò đánh thuế ngang trái. Do đấy, việc buôn bán trao đổi không đình trệ, giá gạo dần dần giảm xuống. Chúa lại hạ lệnh cho nhà giàu Thanh Hoa nộp thóc, đem chứa ở kho Nghệ An, sẽ liệu lượng phong cho quan chức có từng cấp bậc.

Cũng vào thời Vua Lê Hiển Tông và chúa Trịnh Sâm, năm 1774, khi ở Nghệ An có nạn đói, triều đình nhà Lê cũng thực hành các biện pháp như trên, như phát chẩn, trưng thóc, tha thuế buôn thóc, lại hạ lệnh cho ti Hiến sát dò hỏi tỉ mỉ về sự đau khổ của dân để trình bày để triều đình rõ. Nhưng, những việc ấy lại bị các sử quan triều Nguyễn bình luận rằng: “Cũng chỉ là giấy má hão mà thôi”.

Tháng 6 nhuận năm Cảnh Hưng thứ 39 (1778), khi dân miền Bắc và Trung đói to thì các kho thóc gạo của triều đình không phát huy vai trò cứu đói được, vì vận chuyển đi xa, bảo quản không tốt, nên đã mục nát không thể ăn được, vứt bỏ đi đến quá nửa. “Cương mục” ghi rằng: Những thứ tích trữ ở dân gian hầu như nhẵn nhụi, giá gạo cao vọt, một chén nhỏ gạo trị giá một tiền, đầy đường những thây chết đói. Triều đình bèn lập đàn tràng cầu đảo ở kinh thành; dựng quán tế sinh ở thôn Ái Mộ để nấu cơm cháo chia ra phát chẩn. Dù có lệnh người giàu phải bán thóc, giúp đỡ người nghèo, nhưng “mệnh lệnh của triều đình cũng chỉ thi hành một cách cẩu thả trên giấy tờ suông thôi”. Chỉ có Hoàng Đình Bảo, trấn thủ Nghệ An, hạ lệnh kê tên những người nghèo trong hạt thành một danh sách, bắt người có quyền thế vật lực nhận lĩnh về, ủy thác sự chu cấp cho họ, hoặc chiếu theo nhân khẩu để cấp phát thực tiễn. Nhờ thế mà nhiều người được cứu sống.

Tháng 3 năm Cảnh Hưng thứ 47 (1876), cũng có nạn đói, giá gạo cao vọt, dân trong kinh kỳ và tứ trấn bị đói to, thây chết nằm liền nhau. Chúa Trịnh Khải cũng hạ lệnh chiêu mộ nhân dân, ai nộp của sẽ trao cho quan chức, nhưng không ai hưởng ứng. Khi đó, vị chúa trẻ này phải dùng đến sắc lệnh “bắt ức nhà giàu để lấy tiền chia ra phát chẩn”.

Lê Tiên Long
.
.