Kỳ bí Khèn Mông

Thứ Bảy, 08/03/2025, 08:29

Khèn (đúng hơn, khèn bầu) là nhạc cụ đặc trưng của châu Á có lịch sử hơn 3.000 năm. Vùng Nam Trung Quốc, nơi có những bằng chứng khảo cổ sớm nhất về khèn và là nơi khèn có tính đa dạng cao nhất chính là quê hương của khèn. Trong các cây khèn, khèn của người Mông có nhiều nét độc lạ và kỳ bí nhất. Ở dạng gốc, khèn là một cây sáo với hộp âm là vỏ quả bầu khô. Hiện một nhóm Mông vẫn gìn giữ dạng khèn nguyên thủy này.

Một truyền thuyết Mông kể: Xưa có một gia đình gồm hai vợ chồng và 6 con trai. Sau khi cha mẹ cùng mất đi trong một cơn lũ, 6 con thương nhớ khóc suốt ngày đêm. Mất giọng, họ vào rừng lấy trúc về làm sáo thổi thay cho tiếng khóc. Sau, thần núi bày cho họ cách ghép 6 ống sáo lại thành chiếc khèn 6 ống tương ứng với 6 anh em. Từ đó, cây khèn trở thành nhạc cụ trong đám ma của người Mông.

Truyền thuyết trên lý giải vì sao khèn Mông cổ điển có 6 ống và được dùng chủ yếu trong đám tang.

Kỳ bí Khèn Mông -0

Từ lâu, khèn Mông đã trở thành một biểu tượng của văn hóa Mông nói chung, của nam giới Mông nói riêng. Đầu thế kỷ 20, đã có một định nghĩa: một người đàn ông Mông là một người đàn ông có một cây khèn. Trong các truyền thuyết, cũng chính người đàn ông đã tạo ra cây khèn theo chỉ dẫn của thần linh. Theo truyền thống, phụ nữ Mông không bao giờ chơi khèn, chỉ múa theo tiếng khèn. Người Mông coi thổi khèn và múa khèn là việc của đàn ông, còn se sợi, dệt vải, thêu vẽ áo váy là việc của phụ nữ.

Điểm độc đáo nổi bật của khèn Mông so với khèn của nhiều tộc người khác là có hộp gió bằng gỗ thay cho vỏ quả bầu khô. Hộp gió này thông với miệng và đuôi khèn, tạo thành thân khèn hình ống thon dài, các ống khèn xuyên qua vuông góc với thân khèn. Vì thế, người Mông thổi khèn để ống khèn nằm chếch ngang, khác với các tộc người khác, để ống khèn nằm dọc, gần như song song với thân người.

Khèn Mông thường có 6 ống, nhưng cũng có thể có 3, 4, 7, 8, 10 ống, dài từ 0,5 - 4m, tùy theo tài nghệ và ý thích của chủ khèn. Ống càng nhiều, tiếng khèn càng đa thanh; ống càng dài tiếng khèn càng vang vọng. Khèn Mông có lưỡi gà hay dăm khèn bằng đồng, khác với khèn của nhiều tộc khác có dăm bằng tre, gỗ.

Như nhiều tộc láng giềng, người Mông có tục đánh trống thổi khèn trong đám ma để tiễn hồn người chết (câu “Sống dầu đèn, chết kèn trống” của người Việt bắt nguồn từ tục này). Trong một truyền thuyết, người Mông coi cây khèn là nhạc cụ cổ nhất, thiêng nhất và quan trọng nhất của họ do Thần Rồng dạy cách làm…

Riêng với người Mông, khèn vừa để thổi, vừa để múa. Tiếng Mông có khái niệm “múa - thổi khèn”, phản ánh sự kết hợp đồng thời hai việc trên. Họ cũng dùng từ “múa khèn” để chỉ cả việc vừa múa vừa thổi khèn. Có vẻ, việc múa khèn đã khiến người Mông làm thân khèn dài gắn với hộp gió…

Có thể nói, nghệ thuật thổi và múa khèn của người Mông là có  một không hai và đều đạt đến đỉnh cao tuyệt kỹ. Đặc biệt, khèn tạo ra hai không gian vừa đối lập và thống nhất trong tâm thức người Mông.

 Không gian thứ nhất là không gian riêng tư và đầy tính tâm linh, trong nhà một gia đình có tang và chủ yếu dành cho người Mông. Ở đó, tiếng khèn thay người nhắc nhở về cội nguồn lịch sử, dẫn dắt hồn người chết về với tổ tiên nơi vùng đất cội nguồn. Tiếng khèn cũng làm dịu đi nỗi đau của người sống, an ủi hồn người chết, làm vui lòng tổ tiên khi đón nhận con cháu về. Trong đám ma, thầy khèn chậm rãi đi khom mình, xoay trái, xoay phải, vòng quanh quan tài và dưới chiếc trống lễ thể hiện sự kính cẩn khi đưa tiễn hồn người chết.

Kỳ bí Khèn Mông -0

Không gian thứ hai là không gian công cộng ngoài trời (chợ) hay bãi đất trên đồi trong các hội lễ khèn đậm chất giải trí, đời thường, nơi có cả người Mông và các tộc người khác. Ở đó, khèn cũng có nhiều vai trò: một biểu tượng của người Mông và văn hóa Mông, một vật để cho các chàng trai Mông tán tỉnh lôi kéo bạn tình… Ở đó các chàng trai thuộc các dòng họ, các vùng thi thổi và múa khèn, cũng là thi tài năng, sức dẻo dai, tạo ấn tượng tốt không chỉ với các cô gái, mà cả các ông bố bà mẹ. Rõ ràng, những chàng trai thổi khèn dai hay múa khèn dẻo có những phẩm chất cần thiết cho những người sẽ đắp ruộng bậc thang, cày nương đất dốc, cuốc đất trồng ngô hốc đá tai mèo, những chiến binh bảo vệ bản làng. Đặc biệt, họ cũng sẽ là khách quí được mời đến chơi khèn cho các đám tang, đám cưới và lễ mừng năm mới của người Mông gần xa.

Ngoài ra, không gian đó còn gồm cả con đường đi chợ, lên nương, nơi các chàng trai Mông theo truyền thống, thổi khèn để tìm bạn tình hay tán tỉnh các cô gái.

Với người Mông, điểm khác biệt rõ ràng giữa khèn Mông và khèn của các tộc người khác là khèn Mông biết “nói” bởi mỗi nốt nhạc khèn đều tương ứng với một từ Mông. Vì thế, tiếng khèn có thể bắt chước tiếng người để nói chuyện với hồn người chết và với tổ tiên hóa thần linh. Từ đó, người chơi khèn là những người biết kể chuyện bằng tiếng khèn. Không ngẫu nhiên, người Mông dùng từ “miệng” chỉ nơi thổi khèn, từ  “phổi” chỉ hộp gió của khèn, từ “ngón tay” chỉ ống khèn…

Người Việt cũng có quan niệm tiếng đàn bầu Việt gần gũi với tiếng nói người Việt. Một số nghệ nhân đã dùng đàn bầu thể hiện giọng nói ba miền Bắc, Trung, Nam…

Thực tế, tiếng Mông là ngôn ngữ có nhiều thanh điệu nhất trong các ngôn ngữ ở châu Á. Phần lớn tiếng các nhóm Mông có 7-8 thanh, nhưng có nhóm có tới 12 thanh (trong khi tiếng Việt chỉ có 6, tiếng Thái có 5 và tiếng Hoa có 4 thanh). Điều đó cũng làm tiếng Mông gần gũi hơn với tiếng khèn.

Người Mông có hàng trăm bài khèn, trong đó ít nhất 50 bài cho đám ma, mỗi bài có tên, nội dung riêng và chỉ các thầy khèn lão luyện mới biết hết chúng. Dù khèn “nói” được tiếng Mông nhưng giờ đây, không phải người Mông nào cũng hiểu được lời khèn nói. Để học các bài khèn, các cậu bé Mông phải học thuộc cách bấm từng nốt…

Nhìn chung, các động tác múa khèn Mông đa dạng, vừa mạnh mẽ vừa khéo léo, gợi đến các thế võ và nghệ thuật nhào lộn trong xiếc. Nhiều động tác như nhảy xoay tròn hình xoáy ốc, đi dích dắc, uốn lượn… lại gợi đến các hoa văn thêu vẽ chính trên nữ phục Mông.

Nếu nhiều hoa văn trên nữ phục Mông có liên hệ cội nguồn với các hoa văn trống đồng Đông Sơn thì nhiều điệu múa khèn Mông cũng có gốc từ các điệu múa thiêng trong tang lễ mô phỏng động tác của các vật tổ thời Đông Sơn. Trên mặt trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, chúng ta thấy có người thổi khèn trong những người - chim chơi nhạc và nhảy múa theo vòng tròn đưa tiễn hồn người chết về với Bà Tổ Chim trong đám ma thời Đông Sơn...

Một truyền thuyết kể khi khèn xuất hiện, người thổi khèn là một pháp sư với sức mạnh ma thuật của khèn có thể bay lượn như chim. Một cuốn sách cổ mô tả một lễ hội Mông xưa có hàng ngàn trai gái nhảy múa như chim trong tiếng khèn suốt ba ngày đêm. Một tranh thêu Mông thời cận đại vẫn thể hiện một chàng trai Mông thổi khèn, trên đầu và trên trang phục có hình chim, thú.

Trong lịch sử, cùng với nhiều nhóm Bách Việt, người Mông thờ hai vật tổ chim - rồng, trong đó hai hiện thân của rồng là trâu và hổ.

Sử sách ghi lại Thao Thiết (hổ) là một tên gọi và biểu tượng của Xuy Vưu, Ông Tổ - vị vua đầu tiên, Thần Chiến tranh của người Mông. Một truyền thuyết Hoa kể Hoàng Đế (ông Tổ của người Hoa), sau khi đánh bại Xuy Vưu đã cho khắc Thao Thiết - mặt Xuy Vưu trên đỉnh đồng như một biểu tượng của loài mãnh thú tham lam và hung ác…

Có lẽ vì điều đó, người Mông đã chuyển sang thờ vật tổ trâu, một biểu tượng của nghề nông. Giờ đây, tượng ông tổ Xuy Vưu có sừng trâu trên đầu và các cô gái một số nhóm Mông đội mũ có sừng trâu bằng bạc trong hội lễ.

Đã có một thời, các điệu múa thiêng trong đám ma Mông mô phỏng những động tác của vật tổ hổ. Dễ thấy, nhiều động tác múa khèn như lăn nghiêng, lăn ngửa, đá chân, ngồi xổm… giống các động tác của hổ và gần gũi với hổ quyền.

Các cuộc chiến đấu liên tục chống lại ách bóc lột và đồng hóa của nhà Thanh ở vùng rừng núi Quí Châu, Vân Nam trong hai thế kỷ 18-19 dường như đã kích hoạt tinh thần thượng võ hay tính hổ của người Mông, từ đó làm sống lại các động tác hổ quyền trong múa khèn Mông…

Tạ Đức
.
.