Khoan thứ giảm án tử

Thứ Năm, 31/07/2025, 11:28

Luật pháp thời phong kiến rất nghiêm khắc. Các bộ hình luật triều Lê, triều Nguyễn còn để lại cho biết, với các tội cướp, không cứ thủ phạm hay tòng phạm, theo luật đều bị xử tử. Tuy nhiên, sang triều Vua Minh Mạng, đã yêu cầu xem xét, giảm mức phạt với tòng phạm.

Hình luật các triều đại trước không để lại để biết các mức phạt với tội cướp thế nào. Chỉ thấy “Đại Việt sử ký toàn thư” cho biết, từ thời Vua Đinh Tiên Hoàng đã có sự việc: “Vua muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt chảo dầu lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: “Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vào chảo dầu, cho hổ ăn”. Tuy nhiên, sử sách không ghi nhận một trường hợp nào phạm trọng tội mà bị Đinh Tiên Hoàng bỏ cho hổ xé hay phải chịu hình phạt luộc chín trong vạc dầu cả.

thoi.jpg -0
Theo luật thời Lê, Nguyễn, kẻ cướp, không cứ thủ phạm hay tòng phạm, đều xử chém cả. Ảnh tư liệu.

Các hình phạt cao nhất thời Tiền Lê còn khốc liệt hơn. Đó là thời Vua Lê Long Đĩnh, khi nhà vua áp dụng những hình phạt như lấy rơm tẩm dầu và đốt sống, chặt từng mảng thịt bằng dao ngắn, dùng dao cùn xẻo, hoặc nhốt vào cũi rồi thả xuống sông hay bắt buộc phải trèo lên ngọn cây cao rồi chặt cây để rơi xuống mà chết. Tuy nhiên, sử cũ cũng không ghi rõ những hình phạt này dành cho những tội danh nào.

Thời Lý là triều đại ban hành bộ hình luật đầu tiên, bộ “Hình thư” vào năm 1042, tuy nhiên văn bản không còn để lại đến nay. Chỉ biết, triều Lý có những hình phạt cũng khốc liệt không kém triều tiền Lê, như cho phạm nhân cưỡi ngựa gỗ (thượng mộc mã), tức đem tội nhân đóng đinh lên tấm ván, đem đi bêu chợ rồi đem ra pháp trường tùng xẻo.

Hình luật triều Trần cũng rất nghiêm minh, như với tội trộm cắp lần đầu bị đánh 80 trượng, thích chữ lên mặt và phải đền cho chủ theo tỉ lệ mất 1 đền 9; nếu không đền đủ phải gán vợ con làm nô tì. Người tái phạm tội sẽ bị chặt chân tay; ai tái phạm tới lần thứ 3 sẽ bị án tử. Với tội ăn trộm mà còn xử nặng như vậy thì các tội cướp đều bị chịu mức án cao nhất là điều dễ hiểu.

Quy định cụ thể về tội cướp còn lại được thể hiện rõ rệt ở bộ “Quốc triều hình luật” triều Lê, ban hành dưới thời Vua Lê Thánh Tông, còn gọi là “Luật Hồng Đức”. Chương “Đạo tặc” (trộm cướp) của bộ luật này có 54 điều, trong đó Điều 16 của chương này (Điều 426 trong bộ luật) quy định: “Những kẻ ăn cướp (nghĩa là ban đêm cầm khí giới cướp của) thủ phạm thì xử chém; kẻ tòng phạm xử giảo (thắt cổ chết); ngoài việc phải đền tang vật ăn cướp, điền sản phải sung công. Cướp của lại giết người thì xử chém bêu đầu; tòng phạm xử chém; phải nộp tiền đền mạng và phải đền tiền tang vật gấp đôi trả cho nhà chủ bị cướp. Kẻ chứa chấp bọn cướp lâu ngày thì xử đồng tội, mới khoảng 10 ngày thì xử giảm 1 bậc, đều phải bồi thường 1/3 nộp vào kho. Kẻ biết việc mà không cáo giác thì xử tội đồ làm chủng điền binh”.

Những quy định nghiêm khắc đối với kẻ cướp tiếp tục được duy trì sang luật pháp triều Nguyễn. Bộ “Hoàng Việt luật lệ”, hoàn thành năm Gia Long thứ 12 (1813), quy định về tội “Cường đạo” (Cướp giật mạnh, trộm cướp gia trọng); tức Điều 235 tổng mục như sau: “Phàm cướp giật mạnh nhưng không lấy được tiền, đều phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm; được tiền của người chủ nó thì không chia thủ, tòng đều chém hết: tuy về sau theo tang vật, buộc tội theo cố ý. Không chia xử theo tang vật là cứ phạt 100 trượng, lưu đày 3.000 dặm. Những lần chưa thực hiện trộm, lại cũng không chia tang vật, chỉ phạt 100 trượng”.

Các điều khác trong phần “Hình công” cũng khẳng định sự nghiêm khắc này, như khẳng định: “Đã cướp được thì không luận nhiều ít, không luận thủ phạm hay tòng phạm, đều đem chém cả”.

Phần giải thích Điều 235 nói rõ: “Phàm kẻ bạo trộm cảm cung tên, quân khí ban ngày ban mặt đón đường cướp của. Nếu tang chứng rõ ràng thì không chia ra nhiều ít, được tiền hay không đều y luật xử chém. Bêu đầu chỗ y gây cướp bóc, để cảnh cáo mọi người. Như làm người bị thương nhưng không lấy được tiền của thi kẻ đầu sỏ, xử chém (giam chờ), kẻ a tòng phát đi biên giới xa. Nếu chưa lấy được của tiền, chưa làm ai bị thương thì kẻ đầu sỏ phát đi biên giới, đứa a tòng 100 trượng, lưu 3.000 dặm”.

Việc xem xét giảm nhẹ án tử với tội phạm cướp của được ghi trong chính sử triều Nguyễn, bộ “Đại Nam thực lục” cho biết về sự kiện diễn ra năm Minh Mạng thứ nhất (1820): “Trong hạt Gia Định có nhiều trộm cướp. Vua không nỡ khép hết vào pháp luật, dụ thành thần rằng: “Dân Gia Định vốn có tiếng trung nghĩa. Năm gần đây, bị mất mùa, dân gian làm ăn khó khăn, cùng quẫn sinh làm bậy, hãm mình vào tội. Nếu không phân biệt thủ xướng và tòng phạm, cứ theo luật buộc tội thì vẫn dẫu họ muốn đổi lỗi theo mới cũng không có đường. Vậy, gặp án cướp mà kẻ tòng phạm tình có thể lượng thì gia ơn giảm cho tội chết, mà xử tội lưu để tỏ ý hiếu sinh”.

Nhà vua cũng muốn tìm hiểu về nguyên nhân trộm cướp gia tăng, khi bảo thị thần rằng: “Dân Gia Định vốn sợ Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Nay, trừng phạt chém giết ngày nhiều, mà trộm cướp ngày càng sinh ra, há chẳng phải vì đói rét bức bách mà ra thế sao?”.

Chưởng Hữu quân Nguyễn Văn Nhân mới đáp rằng: “Đất ấy nhiều bưng biền, trộm cướp dễ tụ tập. Huống chi, dân ngày thường không biết tích trữ, ngoài ngũ cốc ra không trồng những thứ có thể đỡ đói. Chợt gặp mất mùa thì giữ sao được hằng tâm. Trước thần làm Tổng trấn đã bày đặt nhiều cách, song rồi cũng không hết được”.

Cũng bộ sử này cho biết thêm về việc xử những kẻ tòng phạm án cướp, trước khi bộ “Hoàng Việt luật lệ” chính thức có hiệu lực thi hành năm Gia Long thứ 14 (1815). Theo đó, vào tháng 11 năm Minh Mạng thứ 2 (1821), Hữu tham tri Binh Bộ lĩnh Binh tào Bắc Thành là Trần Quang Vĩnh dâng sớ lên nhà vua điều trần 10 việc, trong đó có một việc về công bằng hình luật, nói rằng: “Từ xưa đế vương không những chỉ lấy hình buộc dân, mà tất lấy đức làm gốc. Từ năm Gia Long thứ 14 về trước, án trộm cướp chỉ giết kẻ đầu sỏ, còn kẻ khác đều bắt tội đồ, vì thế được toàn tính mệnh rất nhiều. Đến khi chế điều luật, kẻ cướp lấy được của thì không phân thủ phạm hay tòng phạm, đều xử chém cả. Xin từ nay kẻ cướp thì nên xét xem lấy của nhiều hay ít, hại người hay không hại người, kẻ đầu sỏ cứ luật mà xử, còn kẻ đi theo nên khoan giảm, như thế thì đức hiếu sinh thấm thía lòng dân, mà không có kẻ phạm pháp nữa”.

Khi phê sớ của vị Hữu tham tri này, Vua Minh Mạng nói: “Trong luật nói “kẻ cướp thủ phạm tòng phạm đều chém”, như thế để dân đỡ phạm tội, là ý đặt hình luật để mong không phải dùng hình. Nay muốn xử nhẹ thì phải nên lúc xét hỏi tùy tình hình định tội để tỏ lòng thương dân. Còn như pháp luật đã định rồi, có thể lại sửa đổi ư? Đại khái lời tâu nửa được nửa hỏng, nhưng nay mở rộng đường cho nói mà biết vâng chiếu dâng thư thì cũng đáng khen ngợi. Trẫm cũng chọn điều hay cho thi hành”.

Tháng 11 năm Minh Mạng thứ 4 (1823), nhà vua cũng bảo Bộ Hình rằng: “Kẻ cướp lấy của, không cứ thủ phạm tòng phạm đều chém, điều luật đó rõ ràng. Mới đây, ở Gia Định vì dịch lệ ra tai, sinh lý khó khăn, trẫm thương dân nghèo ngặt vì đói rét mà mắc phải tội lệ, cho nên đặc cách hạ lệnh phạm ăn cướp thì kẻ tòng phạm cho giảm tội chết mà kết tội lưu, đó là việc quyền nghi, không phải là định lệ. Vậy nên truyền dụ từ sau thành hạt có án cướp thì nên theo luật mà nghĩ xử. Đến như bè đảng tòng phạm, gián hoặc có người tội tình đáng thương thì tâu lên xin chỉ, không được tự xử giảm tội”.

Vào tháng 3 năm Minh Mạng thứ 5 (1824), nhà vua thấy ở Bắc Thành một năm xử chém kẻ cướp đến hơn 200 người, mới bảo Bộ Hình rằng: “Án ăn cướp trong luật vốn có điều riêng, duy những đứa đi theo đứng gác ở ngoài, tiếp nhận của cải, những đứa chưa sang thuyền vào nhà lấy của, cùng những đứa bị hiếp dỗ đi theo ăn cướp hoặc đi ăn cướp mới có một lần, số tang không nhiều, đều là những tình nên thứ, nếu cứ lấy luật mà xử thì có phải vâng theo ý thương xót khi xử hình đâu. Vậy, truyền dụ cho thành thần từ sau có án ăn cướp như loại ấy thì nên đợi tâu xét định”.

Vua Minh Mạng không chỉ quan tâm việc khoan dung cho những kẻ tòng phạm trong các vụ cướp, mà còn muốn xử lý ngăn chặn giặc cướp từ gốc. Năm đó, trấn Bình Định gạo đắt, trấn thần lo trộm cướp, tâu xin đặt thêm lý trưởng để giúp việc xét bắt. Đọc sớ, nhà vua quở rằng: “Bắt cướp yên dân, trách nhiệm ở quan phủ huyện. Nếu biết đốc sức các xã trưởng chức dịch để tâm tra xét trong làng mạc, sao cho ngay gian phân biệt, thì kẻ gian nhũng còn trốn ẩn đâu được, không phải cầu yên mà tự yên, hà tất thay đổi lôi thôi cho nhiều việc, chỉ làm nhiễu thêm. Lại địa phương bỗng gặp mất mùa, chính phải hết lòng nuôi nấng nhân dân, khiến cho dân nghèo đều được ở yên, thảng hoặc có tai thương riêng nặng thì cũng cứ thực chạy tâu, hoặc bàn phát chẩn, cho vay, hoặc xin hoãn thuế cho khỏi đói khổ, sao không nói gì đến các điều ấy mà chỉ xin đặt thêm lý trưởng thôi? Ví bằng bọn ngươi quen thói lười biếng, việc xảy ra không ngờ thì hạng lý trưởng ấy có thể làm xong việc được không? Lời xin ấy không cho làm”. 

Lê Tiên Long
.
.