Hình phạt tịch thu tài sản

Thứ Sáu, 26/12/2025, 10:00

Thời phong kiến, hình luật ngoài quy định 5 mức hình phạt (tức “ngũ hình”, gồm xuy - đánh roi, trượng - đánh gậy, đồ - lao động khổ sai, lưu - đi đày và án tử), còn có thêm các hình phạt bổ sung, như phạt tiền, bắt đền bù cho người bị hại, bãi chức, giáng chức với người có chức vụ, tịch thu tài sản và sung vợ con làm nô tì của nhà nước hay nhà quan.

Các bộ hình luật còn để lại đến nay, gồm bộ “Quốc triều hình luật” của nhà Lê, hay còn gọi là Luật Hồng Đức, và “Hoàng Việt luật lệ” của nhà Nguyễn, hay thường gọi là Luật Gia Long, đều quy định việc tịch thu tài sản, với các mức tịch thu toàn bộ tài sản để đền bù tổn thất gây ra, hoặc tịch thu một phần tài sản.

ho-quy-ly.jpg -0
Năm 1393, khi ban hành tiền giấy, Hồ Quý Ly quy định “kẻ nào làm tiền giả sẽ bị tội chết, ruộng đất, tài sản bị tịch thu”

Dù không còn các bộ hình luật của các thời đại trước, nhưng qua sử sách, có thể thấy hình phạt tịch thu tài sản đã được thực hiện từ thời Lý - Trần...

Điển hình là vụ xử Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư thời nhà Trần, khi ông này tư thông với công chúa Thiên Thụy, vợ của Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn. Hưng Vũ vương không những là con trai vị Quốc công Tiết chế lừng danh Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, mà còn có công lớn trong việc đánh giặc Nguyên. Vua Trần Nhân Tông sợ phật ý Hưng Đạo vương, mới sai người đánh chết Trần Khánh Dư ở hồ Tây, nhưng lại dặn quân sĩ không đánh đau quá, để không đến nỗi chết. Ít lâu sau, nhà vua xuống chiếu đoạt hết quan tước, tịch thu tài sản của Trần Khánh Dư, không để lại chút gì. Riêng châu Chí Linh vốn là của riêng của Thượng tướng Trần Phó Duyệt, cha của Trần Khánh Dư, nên Khánh Dư được giữ lại. Không còn tài sản, Khánh Dư lui về ở Chí Linh, làm nghề bán than kiếm sống.

Hình phạt tịch thu tài sản thời nhà Trần cũng thường áp dụng với các tội phạm phản nghịch. Như sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần 3, năm Trùng Hưng thứ 5 (1289), triều Trần xử tội những người trước đây đầu hàng giặc. Những kẻ này, dù bản thân ở triều đình giặc, cũng kết án vắng mặt, xử tội đi đày hoặc tử hình, tịch thu điền sản, sung công, tước bỏ quốc tính.

Thái bảo Trần Khắc Chung có người vợ là Bảo Hoàn. Vào những năm niên hiệu Trùng Hưng (đời Vua Trần Nhân Tông), khi quân Nguyên vào cướp, cha mẹ Bảo Hoàn hàng giặc, nên tài sản, ruộng đất đều bị tịch thu sung công. Đến khi Vua Trần Anh Tông lên ngôi, xuống chiếu cho trả lại ruộng đất đó, nhưng Trần Khắc Chung cũng không đem điền sản đó dùng vào việc thờ cúng.

Một trường hợp phạm trọng tội bị tịch thu tài sản khác diễn ra đời Vua Trần Dụ Tông. Năm 1363, Ngô Dẫn - trại chủ xã Đại Lai là người bị án này. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” thì từ đời Vua Trần Minh Tông, cha Dẫn bắt được viên ngọc rết rất đẹp, đem đến Vân Đồn, các thuyền buôn tranh nhau mua. Một người chủ thuyền muốn đuợc vật lạ đó, dốc hết của cải để mua, nhờ đó Ngô Dẫn trở nên giàu có. Trần Minh Tông ham của, đem công chúa Nguyệt Sơn gả cho Dẫn. Dẫn cậy giàu có đi thông dâm với người con gái khác, lại có những lời lăng nhục công chúa. Công chúa đem việc ấy tâu vua. Dẫn bị kết tội, tuy vua tha chết nhưng bị tịch thu toàn bộ gia sản.

Cuối thời Trần, đời Trần Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 9 (1396), khi Hồ Quý Ly cho phát hành tiền giấy Thông bảo hội sao, đã ban hành luật rằng, kẻ nào làm tiền giả sẽ bị tội chết, ruộng đất, tài sản bị tịch thu.

Trong vụ âm mưu lật đổ Hồ Quý Ly bất thành năm 1399 của Trần Khát Chân và các tôn thất, khi sự việc bị phát giác, 370 người bị Hồ Quý Ly bắt giết, tịch thu gia sản, con gái bắt làm nô tỳ, con trai từ 1 tuổi trở lên bị chôn sống hoặc bị dìm nước.

Việc áp dụng hình phạt tịch thu gia sản trong quân ngũ được ghi trong chính sử đầu tiên vào thời Hồ Hán Thương. “Toàn thư” cho biết, năm 1403, vua nhà Hồ sai Phạm Nguyên Khôi cầm quân đánh Chiêm Thành, ban hành điều lệnh: “Ai ra trận mà sợ giặc thì bị chém, vợ con, điền sản bị tịch thu sung công”.

Khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã gần đi đến thắng lợi, năm 1426, Bình Định vương Lê Lợi đã ra lệnh tịch thu vợ con, nô tỳ sản nghiệp của bọn ngụy quan (những người làm việc cho quân Minh) nộp lên, còn thóc lúa của chúng thì vẫn để ở bản xứ để đợi cung cấp cho quân đội. Đến năm 1427, Bình Định vương sai giết Tư mã Lê Lai (người trùng tên với công thần Lê Lai có công cứu chúa), tịch thu gia sản, vì “Lai cậy có chiến công, nói năng khinh mạn”. Tháng 4 nhuận năm 1428, ngay sau khi lên ngôi vua, Lê Thái Tổ cũng đã ra lệnh chỉ rằng: “Những quân dân bị bắt vào 4 thành Tây Đô, Đông Kinh, Cổ Lộng, Chí Linh đã được bổ vào các quân phụ vào quân Thiết đột mà có ruộng đất, nhà cửa bị tịch thu thì đều được trả lại”.

Đời Vua Lê Nhân Tông, năm 1448, triều đình cử Nhập nội tư mã Lê Ê đem quân chinh phục Tư không châu Phục Lễ là Đèo Mạnh Vượng, vì các tội “tính hung bạo, lòng người không theo, lại ngầm sai người đánh thuốc độc giết hại bộ đảng của mình, bộ đảng ai cũng thù oán”. Đèo Mạnh Vượng bị bắt, được cho tự sát, tài sản bị tịch thu hết. Trước khi quan quân đến thì người châu này đã tranh nhau giết 2 con của hắn, bắt giam cả vợ cả, vợ lẽ, nô tì, lấy hết vàng bạc của cải đem nộp tại cửa quân. Lê Ê khéo biết an ủi vỗ về, không mảy may chạm đến của cải, tình hình lại yên ổn như cũ, người trong châu rất vui lòng.

Khi Bộ luật Hồng Đức được biên soạn hoàn chỉnh, theo văn bản để lại đến nay thì hình phạt tịch thu tài sản không được viết thành điều luật riêng, mà nằm rải rác trong các điều luật khác. Ví dụ như ở Điều 2, Chương Vệ cấm, tức Điều 51 của bộ luật, quy định: “Kẻ nào tự tiện vào cửa hoàng thành thì bị tội trượng hoặc biếm, vào cửa cấm phải tội đồ làm khao đinh, vào cửa thứ nhất trong điện phải tội đồ làm chủng điền binh, vào cửa thứ hai phải tội lưu đày đến châu gần; vào cửa cung môn thì phải chém. Nếu mang gươm, cầm trượng thì tội nặng thêm 2 bậc và tải sản phải tịch thu sung công”.

Hay, ở Điều 420, tức Điều 10, Chương Đạo tặc quy định: “Kẻ giết tới 3 người trong một gia đình, hay xả thây người ta, thì xử tội chém bêu đầu, tòng phạm xử tội chém; điền sản của kẻ phạm tội phải dùng để đền bù cho vợ con người bị giết”.

Các vụ án phải áp dụng hình phạt tịch thu tài sản ít được đề cập trong thời Lê trung hưng. Nhưng, vào thời Vua Lê Thần Tông, năm 1639, triều Lê có định rõ lại về việc kiện tụng nhân mạng theo như quy chế năm Cảnh Thống (đời Vua Lê Hiến Tông): Phạm nhân chỉ bị tịch thu ruộng đất, tài sản của bản thân và của vợ con thôi. Nếu không đủ, thì cho khai lấy ruộng đất, tài sản của cha mẹ, anh em làm tiền đền mạng, không được bắt cả đến họ hàng, làng xóm, coi đó là điều luật lâu dài.

Sang đến triều Nguyễn, “Hoàng Việt luật lệ” ban hành dưới thời Vua Gia Long có các điều khoản cho phép tịch thu toàn bộ gia sản sung công trong trường hợp mưu phản, đại nghịch (các điều 223, 224). Nhà nước cũng có thể tịch thu một phần gia sản để bồi thường thiệt hại hoặc cấp dưỡng cho nạn nhân bị đánh thành thương (các điều 286, 287). Trường hợp không có gia sản thì tâu lên vua định đoạt.

Sử nhà Nguyễn cho thấy, những năm đầu triều đại, một số vụ quan lại, tướng quân ở xa vi phạm quân lệnh, hay tư thông với quân giặc ở Trấn Biên, hoặc tự ý chuyên quyền buôn bán riêng... đều bị tịch thu gia sản. Đến năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), triều đình mới bàn lại định lệ về tài sản của bọn giặc phạm. Trước đó, quan tỉnh Sơn Tây là Nguyễn Đăng Giai tâu rằng, từ trước đến nay, ở tỉnh xử các án tư thông với giặc, chứa chấp giặc và tư tình mà không đầu thú hoặc thu hết tài sản của kẻ thông giặc và kẻ chứa giặc, hoặc có chỗ đã niêm phong mà lại trả về, cũng có chỗ lại không niêm phong. Tất cả đều chưa được nhất định, nên xin sắc cho Bộ Hình châm chước bàn định.

Vua Thiệu Trị giao các quan trong triều bàn luận. Các quan cho rằng theo văn bản trong luật, phàm những tội mưu phản (chống lại nhà nước), đại nghịch (phạm đến quân chủ và mưu phá lăng miếu...) và mưu bạn (phản bội đất nước đi theo giặc), chỉ có kẻ đồng mưu, không phân biệt là thủ phạm hay tòng phạm, thì tài sản đều bị tịch thu sung công, còn người biết tình mà cố ý buông tha và giấu giếm, hoặc biết mà không khai báo, cùng thông với giặc, chứa giặc, đều không có luật tịch thu tài sản. Riêng án cướp thì phàm kẻ phạm tội ăn cướp đã đáo án xét thực thì trước hết đem gia sản các tên phạm mà niêm phong lại, đợi đến ngày làm án kết tội, đem gia sản các tên kẻ cướp biến ra bồi thường cho các sự chủ bị mất cướp.

Thời Vua Tự Đức, năm 1868, có một vụ tham nhũng lớn, khi viên thự Tuần phủ Hưng Yên là Tôn Thất Đản tham ô hàng vạn quan tiền cùng nhiều bạc và gạo. Khi thu nhận gạo của dân, ông ta bắt dân cứ trăm hộc thóc phải nộp thêm 4 quan tiền, cộng là 8.000 quan... Khi vụ việc bị điều tra, viên quan này bị 3 tội phải xử cách chức, 4 tội đồ, 1 tội xử giảo giam hậu, nên xử theo khoản nặng mức giảo giam hậu, bắt phải đổi theo họ mẹ là Nguyễn Đản, giao phủ Thừa Thiên bắt giam, gia sản phải tịch biên để bồi thường phần tham ô này.

Lê Tiên Long
.
.