Cờ bạc là bác thằng bần
Có những lời răn dạy của ông bà mình từ đời xửa đời xưa, trải dài theo năm tháng, dù thời đại có thay đổi thế nào vẫn không lỗi thời, thí dụ: "Cờ bạc là bác thằng bần/ Cửa nhà bán hết chân tra vào cùm". Bần là nghèo khó, nghèo rớt mồng tơi. Tục ngữ có câu "Phú bất nhân, bần bất nghĩa" chưa hẳn đã đúng, chỉ vơ đũa cả nắm bởi dù tình huống nào, trường hợp nào cũng có ngoại lệ. Thế nhưng, hễ đã bần do cờ bạc, sát phạt đỏ đen ắt chẳng ai thương xót, cảm thông cho cái sự nghèo túng ấy.
Về từ bác, hẳn nhiều người còn nhớ đến những câu như: "Ai lên xứ lạng cùng anh/ Bõ công bác mẹ sinh thành ra em", "Con người ta đứng trong trời đất/ Ai là không bác mẹ sinh thành", từ nghĩa của nó, ta dễ dàng nhận ra bác chính là cha. Tuy nhiên, hãy quay ngược lại thế kỷ XV với hội Tao Đàn của vua Lê Thánh Tôn, trong bài thơ “Lại vịnh Hàn Tín” có câu: "Mũi bác chọc đông, Tề lạnh khói/ Ngọn cờ trỏ bắc, Triệu bay lò". Nếu hiểu bác/ mũi bác là cha ắt vô lý quá, bởi "mũi bác" không thể đối xứng với "ngọn cờ". Hoặc Chinh phụ ngâm khúc, có câu: "Xưa nay mấy kẻ tùng nhung/ Sương đầm con bác, gió giong lá cờ" cũng khó hiểu nốt.

Thế, bác trong ngữ cảnh này là gì?
"Bác" còn có âm khác là "vác", theo “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895): "Vác: Giáo mác, đồ binh khí" - là thứ khí giới dùng để chém, lưỡi bẹt, hơi cong, sắc lẹm. Từ giải thích này, không chỉ giúp ta hiểu rõ hai đoạn thơ vừa nêu, còn dễ dàng nhìn thấy hình ảnh sinh động trong “Truyện Kiều”, lúc chàng Từ Hải xuất quân: "Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi/ Bác đồng chật đất tinh kỳ rợp sân". Trải dài theo năm tháng, từ vác/ bác đã hoán đổi qua từ mác/ giáo mác, nay hầu như không còn sử dụng, chỉ còn dấu vết trong văn thơ cổ.
Một khi mê đắm cờ bạc, dễ dẫn tới "tra chân vào cùm", ta lại nhớ đến câu chuyện của thi sĩ trào phúng nổi tiếng ở Nam là ông Học Lạc. Ngày nọ, do làm thơ giễu cợt, châm biếm hương chức trong nên ông bị chúng làm tình làm tội. Cùng với ông còn có thêm khách trú cũng bị bắt vì chơi bông vụ - một loại cờ bạc ngày trước. Trước tình cảnh này, ông ứng tác: "Trăng trói lăng xăng nhau một lũ".
Câu này có phải sai mo-rát? Phải trăng trối, hiểu theo nghĩa là lời dặn dò trước khi về suối vàng thì mới hợp lý? Không đâu, trăng chính là cái gông làm bằng hai tấm ván có khoét lỗ tròn, có thể mở ra, đóng lại dùng để tròng vào cổ hay chân người có tội, gọi là "đóng trăng"/ "trăng cùm". Cái trăng này ngày xưa làm bằng gỗ, đã gỗ thì có ngày cũng bị mọt ăn, cứ cho là thế nhưng một khi nói "tù mọt gông" là hàm ý phải chờ thời gian dài, rất dài, thậm chí vô vọng đợi đến ngày được thả ra.
Còn "trói" là dùng dây buộc chân tay lại, hết đường cựa quậy, vì thế mới có từ "trăng dây". Có cái sự trói hết sức ất ơ, ngốc nghếch, chẳng đâu vào đâu, chỉ làm trò cười cho thiên hạ nếu "Trói voi bỏ rọ". Về chuyện ông Học Lạc may là chỉ "trăng trói", chứ chưa đến nỗi "tra chân vào cùm". Câu này cho thấy, sau khi xét hỏi nếu người đó phạm tội rành rành ắt bị tống vào tù. Trong truyện ngắn "Chừa thuốc phiện" (1939), nhà văn Nguyễn Công Hoan viết: "Ngày trước có anh nghiện, phải ngồi tù, ở trong nhà pha, anh ta nhịn thuốc phiện một cách rất dễ dãi" - ta biết "nhà pha" cũng là từ gọi nhà tù, nhà giam, nhà lao... Khi vào trong đó, nào đã yên, còn phải bị "mang trăng"/ "ngồi trăng" là ngồi một chỗ. Nếu ngày nay có khẩu ngữ "đi chăn kiến", "ngồi gỡ lịch" thì ngày xưa người ta gọi là kẻ "ăn rệp" - từ ngộ nghĩnh này còn tìm thấy trong “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895).
Từ bao giờ, ta có từ "nhà đá", có phải từ lúc người Pháp sang nước ta, chúng bắt đầu xây nhà tù vững chắc hơn bằng vật liệu gạch, đá chăng? Nhà tù "khét tiếng" nhất Nam Kỳ lục tỉnh vẫn là Khám Lớn Sài Gòn, chỉ cần nghe nhắc tên đã rợn gáy, nay chính là vị trí của Thư viện Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, được xây trong 4 năm, bắt đầu từ năm 1886.
Về tên gọi của nó, có gì đáng lưu ý về chữ nghĩa?
Trong hồi ký "Hơn nửa đời hư" (Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh -1992), học giả Vương Hồng Sển cho biết: "Oái oăm thay, người Pháp lúc đó không gọi là khám lại gọi là "nhà" và đặt tên là "Maison Centrale" để tránh tiếng Prison Centrale, mà chính họ cũng không muốn dùng tiếng prison vì nghe ghê rợn quá; duy dân ta lại quá nhàm và đặt là Khám Lớn Sài Gòn, cũng không gọi đó là Đại Ngục thất hay Đại Khám đường chi cho rườm" (tr. 326).
Cách gọi này là theo thói quen gọi sự vật/ sự việc mà họ cảm thấy dễ hiểu, quen thuộc, dễ hình dung. Chẳng hạn, đọc lại Sài Gòn năm xưa cũng của Vương Hồng Sển, ta còn thấy vài trong nhiều trường hợp tương tự như ngang Thủ Thiêm, gần xóm Thủy Trại, có một cầu tàu "Cầu Gọ", nhưng người ta lại gọi "Cầu Quan" - vì ở trong xóm có nhiều quan ngụ ở đó; trường dạy các tham biện, giấy trắng mực đen ghi "collège de Interprètes" lại gọi trường Sở Cọp - đơn giản vì trường đó gần Sở thú/ Thảo cầm viên; lại có "Château d'eau de Saigon" nhưng quen miệng lại gọi tháp nước v.v…
Khám Lớn Sài Gòn một khi đã xây dựng kiên cố, tất nhiên những trăng cùm nọ kia cũng thay đổi bằng chất liệu khác, cụ Vương Hồng Sển cho biết cụ thể về phòng giam: "Vách dày ba mươi phân Tây (ba lớp gạch thứ 0,20 x0,10 x 0,05), cửa làm bằng sắt, ống khóa cũng bằng một loại kim khí mà người làm, Ăng-lê và Hoa kỳ, tự hào là giũa không ăn, cưa không đứt, chánh hiệu là ống khóa Yale trứ danh. Phòng nầy dùng để giam cầm những người bị khép án tử hình và ngày như đêm vẫn khóa chân vào cùm sắt (trong Nam còn gọi là còng), và những còng nầy vẫn xỏ vào một gông sắt to bằng bắp tay, một đầu gông thì cháy cứng và một tấm sắt thật dày không rút còng ra được, còn đầu gông bên kia thì có khoét lỗ để đặt một ống khóa Yale thật to".
Như vậy, người tù bó tay, cam chịu tù mọt gông? Cũng có thể là thế, nhưng vẫn có trường hợp ngoại lệ, học giả Vương Hồng Sển kể:
"Ấy vậy mà một đêm tối trời, mưa gió lu bù, vào một giờ khuya khoắt, các sếp cai ngục đang ngủ gục. Giữa lúc ấy (độ một hai giờ khuya), anh cai ngục Chà lai Việt tên là Simoni, có phận sự mở khóa phòng tử hình để vào trong xem xét ổ khóa của cái gông lớn.
Vừa đúng lúc ấy, các tù bên trong đã núp chờ sẵn, bỗng tạt mạnh vào mắt mũi tên cai, ngục một mủng vùa chứa đầy nước mắm giằm ớt cay mà họ dành dụm từ nhiều ngày để chờ cơ hội nầy. Tên cai ngục bị ớt cay nước mắm mặn làm cho mở mắt không ra, thừa dịp ấy, mấy người tù nầy lấy áo quần làm dây trói tay chân tên cai ngục bỏ nằm đó, lục lưng thộp xâu chìa khoá và ùn ùn mở khóa cửa kéo nhau chạy ra ngoài, rồi cởi hết quần áo đánh làm dây thang, quăng móc được lên vách ngoài và mặc dầu miểng chai, miểng kiếng chơm chởm, nhưng bất kể kiếng cắt chai đâm, họ cũng liều chết leo ra trốn được không hơn mười người, về sau đều bị bắt lại đủ số, vì làm sao thoát được với cách đề phòng hết sức hoàn bị của Pháp, có điện ba dây, có chuông a-lẹt (báo động) và cách trấn binh phòng thủ năm ngăn, bảy nắp từ trong ra ngoài của cái Khám Lớn Sài Gòn có tiếng là khó hạ, khó chiếm (imprenable) nầy?".
Sau vụ vượt ngục này, người Pháp mở cuộc điều tra, tù nhân khai là dùng miếng xi măng mài bén dùng để cắt giọng khóa Yale trong nhiều giờ liền. Từ đó, họ đối phó bằng cách: "Thay vì đặt đầu gông và ổ khóa bên trong, bây giờ ta hãy đục vách tường khoét một lỗ nhỏ cho vừa lọt đầu gông ra ngoài, rồi khóa cái ống khóa Yale bên ngoài vách. Như vậy tù nhân làm sao thò tay ra ngoài mà cắt ổ khóa được? Cố nhiên khi đi tuần, chỉ cần liếc xem ổ khóa còn y nguyên, thì biết tù bên trong vẫn còn đủ số. Trừ ra khi nào muốn giải tỏa đầu gông hay dẫn tù ra ngoài, khi ấy sẽ mở khóa, thụt đầu gông vào trong và khi ấy viên cai ngục sẽ đem lính gác có đủ súng ống theo vào trong, thì làm sao tù tạt hắt nước mắm và bắt trói được, như vậy phải lưỡng toàn kỳ mỹ chăng?" (327- 328)
Như đã biết, khi người Pháp đặt tên "Maison Centrale" nhưng dân Sài Gòn cứ kêu là Khám Lớn Sài Gòn thì cách gọi này, không chỉ trong Nam, ngoài Bắc cũng thế. Bằng chứng người Pháp khi xây dựng "Maison Centrale" vào năm năm 1896 trên đất làng Phụ Khánh, tổng Thọ Xương (Hà Nội) - tên gọi ấy đã ghi rành rành trên văn bản pháp lý. Thế nhưng, người ta lại chỉ quen gọi Nhà tù Hỏa Lò - là gọi theo sản phẩm truyền thống mà từ ngàn xưa làng này chuyên làm các loại đồ gia dụng như siêu, ấm, bếp lò bằng đất nung…
Tóm lại, một khi đã tra chân vào cùm, dù câu nói "tù mọt gông" không còn "hợp thời nữa" bởi dụng cụ đã thay thế vật liệu khác thế nhưng lời răn dạy: "Cờ bạc là bác thằng bần/ Cửa nhà mất hết tra chân vào cùng" vẫn còn ý nghĩa thời sự. Trong khi đó, quan niệm: "Tháng Giêng là tháng ăn chơi/ Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba rượu chè/ Tháng Tư là tháng lè phè/ Tháng Năm, tháng Sáu hội hè vui chơi…" nghe ra lạc hậu lắm rồi, không còn hợp thời nữa.