Câu chuyện đắp đê

Thứ Năm, 11/12/2025, 11:21

Trong bộ sử "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" do các sử quan triều Nguyễn chép lịch sử nước ta từ đời Hồng Bàng đến hết đời Lê, ở dưới phần viết về việc triều Trần bắt đầu đắp đê "quai vạc", Vua Tự Đức đã phê rằng: "Một lần thất sách, để tai hại về sau không biết chừng nào!".

Ý của Vua Tự Đức về vấn đề đê điều đã thể hiện rất rõ, rằng ông phản đối việc các triều đại trước đã đắp đê phòng lụt cho hệ thống đê ở miền Bắc. Tuy nhiên, Vua Tự Đức từ khi sinh ra, lớn lên đều ở kinh thành Phú Xuân (Huế ngày nay), có lẽ những hiểu biết của ông về vai trò của hệ thống đê điều đều qua sách vở và ý kiến của các quần thần là chính.

Câu chuyện đắp đê -0
Đê sông Hồng hơn 100 năm trước. Ảnh tư liệu

Hiểu biết của triều đình nhà Nguyễn về lịch sử đê điều như thế nào? Có thể thấy điều này qua nội dung bản sớ của các vị quan phụ trách cơ quan quản lý đê điều ở Bắc Thành là các vị Đê chính thần Lê Đại Cương, Hoàng Quýnh lên Vua Minh Mạng: "Thiết nghĩ, từ đời Đinh - Lý về trước, chưa có đê phòng, dân địa phương đào giếng cày ruộng, có hại về nước lụt hay không thì chưa được rõ. Từ đầu đời Trần sai các lộ đắp đê để chống lụt, dân gian từ đấy đến những nơi thấp trũng mà nhóm ở làm ăn, cho nên các đời theo đó mà sửa đắp, xem là điều cốt yếu trong việc giữ dân và vệ nông, người ta mới nói rằng sau khi đã có đê không thể bỏ đê được nữa. Cho nên, lời bàn bỏ đê, bọn thần chưa dám chắc là định luận. Duy việc đào sông thì từ xưa đã có".

Trước đó, Vua Minh Mạng đã sai các vị quan phụ trách công việc đê chính đi điều tra, thăm dò về các biện pháp phòng lụt ở miền Bắc. Sau khi đi thăm hỏi phụ lão ở các địa phương, Lê Đại Cương, Hoàng Quýnh báo cáo kết quả, nói rằng ngoài việc đê phòng không còn cách nào khác hữu hiệu. Còn các biện pháp khác là bỏ đê cho nước lũ tự do tràn qua và khai đào dòng sông mà thôi. Quan đê chính thời Vua Minh Mạng có phẩm hàm rất cao, vì triều đình bổ quan văn hàm nhị phẩm làm Đê chính sứ, và một quan võ hàm tam phẩm làm tham biện, cho thấy triều đình coi trọng công tác này.

Ngược dòng lịch sử thì không như lời sớ của Lê Đại Cương, sử sách đã ghi việc đắp đê có từ thời Lý. "Đại Việt sử ký toàn thư" cho biết, đời Vua Lý Nhân Tông, năm Long Phù thứ 8 (1108), tháng 2 (âm lịch), triều đình đã tiến hành huy động dân chúng đắp đê ngăn nước sông Hồng ở phường Cơ Xá. Sang đến thời Trần, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 17 (1248) đời Vua Trần Thái Tông, vào tháng 3, nhà vua bắt đầu sai đắp đê Đỉnh Nhĩ (tức đê quai vạc, đê bao bên ngoài đê chính). Sử viết: "Nhà vua hạ lệnh cho các lộ đắp đê tự đầu nguồn đến bãi biển, để đề phòng nước sông lên to, gọi là đê Đỉnh Nhĩ; đặt chức Hà đê chánh sứ và phó sứ để trông coi đốc thúc việc đắp đê. Nếu có chỗ nào đắp vào ruộng đất của dân, sẽ tính trả tiền lại. Việc đắp đê Đỉnh Nhĩ bắt đầu từ đây".

Tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 5 (1255), "Toàn thư" cho biết Vua Trần Thái Tông tiếp tục sai Lưu Miễn đi bồi đắp đê ở sông thuộc lộ Thanh Hóa. Tháng 4 năm đó, nhà vua lại đặt chức Hà đê chánh, phó sứ, lấy các quan giữ chức nhàn tản sung bổ; hằng năm cứ khi nào làm ruộng xong, các viên ấy đốc quân đắp sườn đê và khơi các khe cừ, để đề phòng khi thủy tai hoặc đại hạn.

Việc đắp sửa đê điều từ đó được tiến hành đều đặn, duy trì sang suốt thời Lê sơ, Lê trung hưng. Như vào thời Vua Lê Huyền Tông, năm 1664, triều đình ban hành định kỳ hạn sửa đắp đê điều. Theo đó, cứ tháng 10 hằng năm, ti Thừa chính các xứ sức cho các huyện thuộc hạt đi khám đê điều, xem chỗ nào cần phải sửa đắp. Nếu là công trình nhỏ, thì chiếu theo xã nào mà thế nước có thể đến được sức cho dân các xã ấy tự làm công việc sửa đắp, việc sửa đắp này là do huyện trông coi thúc giục; nếu là công trình lớn thì hạ lệnh cho quan đôn đốc. Hằng năm, cứ thượng tuần tháng Giêng thì khởi công, đến trung tuần tháng 3 công việc đã phải làm xong. Điều này đặt làm thể lệ lâu dài.

Dù vậy, thì hiệu quả của việc đắp đê đến cuối thời Lê trung hưng đã bị suy giảm nhiều. Theo "Cương mục", đời Vua Lê Dụ Tông, năm 1711, khi chúa Trịnh Cương cho người kiểm tra việc đốc thúc dân đắp đê, thì thấy các quan ở trấn phần nhiều chỉ làm cẩu thả cho xong việc, nên mỗi năm đến mùa nước lũ, đê lại vỡ lở, dân vùng ven sông luôn bị tai hại. Do đó, triều đình mới hạ lệnh cho quan trong kinh là bọn Lê Dị Tài và Trần Công Trụ chia nhau đi đôn đốc. Dù vậy thì "công việc sửa đắp đê sau đây thêm bận rộn hơn, nhưng cũng không sao ngăn ngừa được nạn nước lụt", sử viết như vậy.

Khi nhà Nguyễn mới lên, Vua Minh Mạng là người quan tâm đến việc đê điều ở miền Bắc nhất. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), khi có một viên võ tướng thị vệ đi việc công ở Bắc Thành về, vua gọi hỏi về việc dân, nhân bảo thị thần rằng: "Việc đắp đê giữ lụt trẫm thường đến nửa đêm lo tính suy nghĩ đời sống của dân mà chưa được kế gì hay. Phàm đắp đê giữ lụt chẳng qua là tranh lợi với nước, tưởng cũng là vì địa thế khiến phải vậy thôi. Đất kỳ phụ (miền đất ở gần kinh kỳ) ở gần biển, nước lụt tràn lại rút ngay, không đê cũng được. Còn ở Bắc Thành thì địa thế phẳng rộng, nước lũ mùa thu tiến đến, nguồn xa dòng dài, không đắp đê ngăn lại thì cái nạn ngập lụt không thể tính hằng tuần được, ruộng đất nhà cửa của dân ta đều ở đấy cả. Nếu muốn dời đi nơi khác thì đi đâu được. Muốn cho tiện dân thì đê không thể bỏ được. Các đời trước đắp đê đã lâu. Nay, chi bằng nhân đê cũ mà bồi đắp thêm. Nhưng, trước khi làm cũng nên xét kỹ hình thế".

Năm 1833, Vua Minh Mạng từng ra lệnh đình chỉ việc đắp đê để chờ xem tình hình ra sao rồi mới bàn định lại. Tuy nhiên, năm 1834, vua sai Giám thành Phó sứ là Trương Viết Sùy kiểm tra lại thì ông này báo cáo lại rằng "không thể bỏ đê được".

Vua Thiệu Trị cũng có ý tưởng phản bác việc đắp đê. Theo bộ sử triều Nguyễn "Đại Nam thực lục", khi nói chuyện về việc đê điều ngay sau khi lên ngôi, nhà vua đã cho rằng: "Đắp đê để chống nhau với nước sông, cố nhiên là người xưa đã thất sách. Nhưng, sau khi đã có đê rồi, lại không thể nhất khái bác bỏ đi được, cần nên xét kỹ tình hình, châm chước theo sự thuận tiện của dân, mà phân biệt những chỗ đê nào nên bỏ, đê nào nên đắp cho xác đáng, mới là thỏa thiện".

Năm 1847, Tổng đốc Hà Ninh (cai quản 2 trấn Hà Nội và Ninh Bình) Nguyễn Đăng Giai đã đề xuất lên Vua Thiệu Trị về ý định bỏ đê sông Hồng và sẽ khai thông sông Nguyệt Đức (Sơn Tây), Thiên Đức (Hàm Long), Nghĩa Trụ (Bắc Ninh), khiến nước sông Hồng được phân lưu chảy về Đông, giảm bớt lượng nước chảy vào đồng ruộng. Sau khi bàn bạc cùng đình thần, Vua Thiệu Trị không chấp thuận đề nghị này, vì cho rằng: "Nếu nhất đán hủy bỏ đi, nước lũ chảy quanh thì chỗ cao phải đi thuyền, ở sàn, mà chỗ trũng phải bỏ làm đầm, làm vực, không biết luận điệu 'chén nước đổ vào mâm' đã là xác đáng chưa".

Vua Tự Đức là người phản bác chuyện đắp đê nhiều nhất. Năm 1852, vị vua này đã cho mở cuộc trưng cầu ý kiến về việc phòng đê ở Bắc Kỳ, các ý kiến các quan chia thành 2 phái: Giữ đê và bỏ đê. Nhóm chủ trương cứ đắp đê các sông lớn, bỏ đê sông con và sông nhỏ có Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Soạn, Nguyễn Văn Tĩnh, Nguyễn Cẩm, Bạch Tự Cường..., nhóm chủ trương giữ đê có Đặng Văn Hòa, Trương Văn Uyển, Ngụy Khắc Tuần, Nguyễn Khắc Hoan, Nguyễn Văn Siêu, Bùi Quỹ... Các ý kiến của phái bỏ đê cuối cùng vẫn chưa đủ thuyết phục được nhà vua.

Năm Tự Đức năm thứ 10 (1857), xảy ra các vụ vỡ đê nhiều lần ở Hà Nội và Bắc Ninh, nhà vua lại sai các quan bàn luận. Đình thần tâu rằng: "Hiện nay việc phòng giữ nước sông, trừ phi lại sửa đắp đê điều, thực chưa có kế sách gì khác cả. Xin tham xét lệ về khoản năm Gia Long, Minh Mạng đặt riêng sở Đê chính chuyên nha làm việc, để chuyên trách có thành hiệu mới được". Các vị quan Phạm Chi Hương, Vũ Đức Nhu lại bàn thêm rằng trong phép trị thủy thì khai sông, đắp đê nên phải làm cả hai.

Năm Tự Đức thứ 14 (1861) Giám sát ngự sử là Vũ Văn Bỉnh cũng đã tâu bàn việc phá bỏ đê ở miền Bắc, trên từ Sơn Tây, Bắc Ninh, Hà Nội, dưới đến các tỉnh Hưng Yên, Nam Định, không kể là đê điều của công hay của tư dân, lớn hay nhỏ, hết thảy san lại cho bằng, để cho nước sông tự do lan tràn, thuận dòng chảy xuôi xuống, thì dân ở 5 tỉnh có thể không quan ngại gì vậy. Tuy nhiên, Vua Tự Đức sai quan sở đê chính và các tỉnh thần xét tâu, đều nói là không tiện, nên việc ấy để đấy.

Đến khi thực dân Pháp bắt đầu đô hộ nước ta, họ có hệ thống chuyên gia ở Sở Thủy lợi phân tích việc thủy lợi theo phương pháp khoa học, với hệ thống số liệu và tính toán chi tiết. Khi vị Kinh lược sứ Bắc kỳ Hoàng Cao Khải nghỉ hưu trí ở Hà Nội, cũng đưa ra chủ trương giữ đê. Trong thư gửi cho Thống sứ Bắc kỳ, ông cho rằng, nếu đồng loạt bỏ hết đê, các làng mạc sẽ chìm trong nước lũ, muốn canh tác trở lại, phải chờ đến 10 năm.

Tài liệu của Hoàng Cao Khải được Thống sứ Bắc kỳ chuyển cho Sở Thủy lợi Pháp tại Hà Nội cho ý kiến. Trong tờ trình cho cấp chỉ huy, viên Chánh kỹ sư, Giám đốc Sở Thủy lợi tán đồng phần lớn quan điểm của vị nguyên Kinh lược sứ và nhận xét thêm rằng lòng sông không được bồi nhanh như người ta tưởng, nước ngày một dâng cao, chủ yếu là lưu lượng nước tăng lên do nạn phá rừng ở thượng nguồn gây ra.

Còn triều đình Huế, với sự tư vấn của các quan Pháp, đã kiên định với lập trường giữ đê. Thập niên đầu thế kỷ 20, Vua Thành Thái ban hành quy định rằng hằng năm cứ trước ngày 20 tháng 11 dương lịch, Sở Lục lộ các tỉnh đi khám đê điều trong hạt, lập biên bản trình cho công sứ Pháp liệu biện để có phương án tu bổ. Tuy nhiên, từ đó đến ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, miền Bắc nước ta vẫn còn chịu nhiều trận lụt lớn, gây thiệt hại nghiêm trọng cho dân chúng. 

Lê Tiên Long
.
.