Tài sản công cộng là một tài nguyên
LTS: Đa số chúng ta quen với khái niệm tài sản công chứ ít khi lưu ý tới khái niệm tài sản công cộng, mặc dù, ở thể chế của chúng ta, hai khái niệm này gần như chồng lấp lên nhau. Và ở giai đoạn cần thay đổi, cải cách mạnh mẽ, nói không với lãng phí, phải chăng, tài sản công cộng ở Việt Nam vẫn còn đang trong tình trạng… bị bỏ phí?
Kẻ ăn theo bất đắc dĩ
Cách đây vài năm, có một địa điểm khiến tôi phải suy nghĩ thật nghiêm túc về sự thờ ơ của mình: bãi rác Nam Sơn.

Trước đó, tôi có nghe nói loáng thoáng về nó, qua các bài báo, chùm ảnh… Đại loại là kể chuyện bãi rác lớn nhất Thủ đô. Ấn tượng có thế thôi. Trí óc con người thường đào thải rất nhanh những hình ảnh không thuộc phạm trù đẹp đẽ, và tôi cũng không nghĩ quá nhiều về cái tên này.
Nhưng vào một hôm, khi mùi hôi thối tràn ngập khu phố đang sống, tôi mới phải tìm hiểu nguyên nhân, và phát hiện ra tầm quan trọng của nó. Người dân địa phương đã căng bạt, chặn xe tải chở rác vào Nam Sơn, và thế là Hà Nội, bao gồm nơi tôi sống, tự nhiên ngập trong rác vì không có chỗ đổ.
Chuyện ấy là tất yếu, vì Nam Sơn là khu liên hợp xử lý khoảng 77% lượng rác sinh hoạt của 17/31 quận, huyện (cũ) tại Hà Nội với công suất hiện lên tới 5.000 tấn rác mỗi ngày. Nó được đưa vào sử dụng từ năm 1996 và là nơi tập kết, chôn lấp phần lớn rác thải sinh hoạt của thành phố.
Nhưng tôi chỉ thực sự hiểu nó quan trọng đến cỡ nào sau một ngày mà rác đổ không được dọn đi. Hóa ra là để chỗ này sạch sẽ, thì chỗ khác phải bẩn, đến nỗi mà người dân địa phương quanh đó bức xúc, chặn xe tải chở rác lại. Năm 2017, hàng triệu con ruồi tấn công các hộ gia đình địa phương. Có nhà mỗi ngày "thu hoạch" vài cân ruồi chết. Quá khủng khiếp.
Nhưng cho đến khi tôi viết bài báo này, thì vấn đề vẫn nằm ở đó, dù số lần chặn xe của dân địa phương đã lên đến hàng chục. Tất nhiên là người dân Hà Nội không thể ngừng đổ rác được, nhưng nghĩ đến những gì người dân địa phương phải chịu đựng, tôi cũng không thể tránh được cảm giác áy náy của một người đã vô tình hưởng lợi dễ dàng từ hoàn cảnh của họ.
Mancur Olson, giáo sư kinh tế từng đoạt giải Nobel, cho rằng các nhóm lớn thường không có nhiều động lực thay đổi tình hình, khi nhu cầu cải cách xảy ra. Lý do là trong các nhóm lớn, có quá nhiều "kẻ ăn theo" (free-rider), những người hưởng lợi dù không đóng góp gì cho tình thế chung.
Từ này ám chỉ một người đi tàu/xe công cộng lậu vé, dù không gây hại cho ai, nhưng đã hưởng lợi thụ động từ một tài sản/sản phẩm tập thể. Đấy dường như là bi kịch chung của mọi loại tài sản công cộng, từ không gian như công viên, nhà ga, bến tàu… cho đến nguồn lực, nguồn vốn. Trong nhóm lớn, khi có quá nhiều "kẻ ăn theo", thất bại tập thể sẽ xảy ra. Công viên thì đầy kim tiêm còn bãi rác thì thôi, khỏi phải nói nữa.
Có nhiều tình huống như thế đã, đang và sẽ xảy ra, vì những "người ăn theo" sẽ duy trì trật tự cũ bằng sự thờ ơ: họ không phải trả một chi phí tương xứng với mức độ hưởng lợi, và mặc kệ nó là một chiến lược tốt cho lợi ích cá nhân.
Nhưng thiệt hại là gì? Tài nguyên không được đầu tư đủ, dẫn đến mất mát xã hội. Bất bình đẳng gia tăng, cộng đồng mất lòng tin, dẫn đến nhiều xung đột (như tranh chấp đất đai chẳng hạn).
Chi phí xã hội phải gánh cho những người ăn theo là không nhỏ. Thế giới cũng có không ít bài học. Ngư nghiệp cá tuyết Newfoundland (Canada) từng là một trong những ngành công nghiệp đánh bắt lớn nhất thế giới, với lịch sử hơn 500 năm, đóng góp chính cho nền kinh tế và văn hóa của tỉnh Newfoundland và Labrador.
Nhưng khai thác quá mức đã khiến trữ lượng đến năm 1992 chỉ còn 1% mức lịch sử (từ 1,6 triệu tấn năm 1962 xuống 72.000-110.000 tấn). Các cá nhân đánh bắt đã cùng nhau khởi động một cuộc đua xuống đáy, hưởng lợi quá nhiều nhưng không đóng góp vào sự phục hồi của hệ sinh thái.
Ngày 2/7/1992, trong tình thế nguy ngập, Canada buộc phải ra lệnh cấm đánh bắt đối với cá tuyết phía Bắc, dự kiến kéo dài 2 năm để phục hồi, nhưng trong thực tế đã kéo dài… 32 năm, và các chuyên gia cho rằng phải đến 2030, ngư nghiệp cá tuyết Newfoundland mới đạt mức bền vững lịch sử. Các nhà kinh tế Canada đo lường được rằng nếu ngành công nghiệp này phục hồi đầy đủ, nó có thể tạo số việc làm gấp 16 lần và nâng 5 lần giá trị so với hiện tại.
Trong một tình huống cực chẳng đã, tôi đã trở thành kẻ ăn theo một cách vô tình. Tiền vệ sinh, hiện có mức chỉ vài ngàn đồng/tháng, với một cá nhân cư trú, rẻ tới mức tôi còn không thể nhớ xem chính xác nó là bao nhiêu nếu không tìm kiếm qua Google (mức chính xác là 6.000 đồng).
Tự bản thân tôi đã thấy nó là một mức phí vô lý, không hề tương xứng với những gì tôi đang hưởng lợi. Nhưng để thiết kế lại nó thì là chuyện không thuộc thẩm quyền của tôi. Nỗ lực đáng kể nhất là cố gắng giảm thiểu rác sinh hoạt, để gánh nặng không dồn lên vai những người đang trực tiếp chịu trận vì sự thoải mái chung.
Tất nhiên, ứng xử với những tài sản công cộng phụ thuộc rất nhiều vào ý thức của mỗi cá nhân, nhưng chuyện quản lý để lợi ích cận biên của mỗi cá nhân phải đủ để họ không biến thành những "kẻ ăn theo" là quan trọng. Chuyện vô lý như phí vệ sinh quá rẻ mạt là một con voi trong phòng, và tôi không muốn im lặng thêm, để tiếp tục đóng vai kẻ ăn theo.
Phạm An
Bên trọng, bên khinh
Việc quản lý các công trình công cộng tại Việt Nam giống một kịch bản phim truyền hình kiểu cũ: đứa con biết buôn bán, nhặt tiền lẻ mang về báo hiếu sẽ được mẹ quan tâm hơn đứa con nghệ sĩ.

Một cuộc tranh luận về quản lý và khai thác vỉa hè tại thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh có thể kéo dài tới 10 năm. Rất căng thẳng, thu hút sự quan tâm của toàn bộ xã hội. Từ thời ông Đoàn Ngọc Hải xuống phố dẹp vỉa hè đến tận đầu tháng 8/2025 này, TP Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục thảo luận về các phương án quản lý vỉa hè. Một logic hiển nhiên: đó là nơi sinh ra tiền.
Trong vùng kinh tế xám, không được pháp luật thừa nhận, vỉa hè là nơi đỗ xe của các cửa hàng, công ty mặt phố, là nơi những gánh hàng rong buôn bán. Trong vùng kinh tế hợp pháp, có những bãi giữ xe, trạm sạc, các kios kinh doanh hàng hóa và dịch vụ được cấp phép. Không ai thống kê được giá trị tiền bạc mà hạ tầng vỉa hè đóng góp vào GDP. Và cũng không ai thống kê được bao nhiêu phần giá trị đó chảy vào ngân sách nhà nước, bao nhiêu để "nuôi" các bên liên quan khác.
Đó là motif của đứa con chịu khó chạy chợ, buôn bán. Nó luôn nhận được sự quan tâm đến mức thiên vị. Còn có những đứa con cũng là hạ tầng công cộng nhưng không biết "nhặt tiền lẻ". Chúng được xây dựng để chăm sóc đời sống văn hóa-tinh thần của người dân: công viên, nhà hát, nhà triển lãm, thư viện…
Theo một kịch bản đậm chất làng quê, những đứa con nghệ sĩ này sẽ phải sống một kiếp tủi thân nếu không muốn nói là bị kỳ thị.
Hơn 20 năm trước, lần đầu tiên Đại học Kiến trúc Hà Nội thi "đề phụ". Các thí sinh thay vì chỉ phải vẽ một bài tả khối (tượng đầu người), sẽ phải tự sáng tạo một bố cục theo chủ đề. Khi thầy giáo luyện thi hỏi tôi: "Nếu người ta yêu cầu vẽ một biểu tượng của quê hương em thì em vẽ cái gì?". Tôi đã trả lời rất tự tin: "Em sẽ vẽ tòa nhà cánh diều".
"Nhà cánh diều" khi đó là một biểu tượng của thành phố Hải Phòng và niềm tự hào của những cư dân thành phố như tôi. Khác với những công trình thời Pháp, với bến phà số 0 mang tinh thần cách mạng, với cánh hoa phượng đỏ truyền thống, nó là biểu tượng cho sự phát triển của thành phố: một công trình kiến trúc hiện đại, với kết cấu mái thép như cánh diều bay giữa nền trời. Và hơn thế, nó là một tòa nhà triển lãm. Nó thể hiện rằng đời sống tinh thần của người dân Hải Phòng được nâng cấp lên một tầm mới.
Suốt gần 20 năm, "Nhà cánh diều" gần như không được quan tâm tu sửa, bảo trì định kỳ. Hàng loạt hạng mục từ mái vòm, hệ thống đèn, lan can, tường nhà... đều đã hoen gỉ, bong tróc, hư hỏng. Cảnh quan xung quanh thì cỏ dại mọc um tùm, tạo ra một khung cảnh hoang tàn. Cơn bão Yagi năm 2024 đã "lột trần" sự xuống cấp của công trình, khiến phần mái bị phá hủy nặng nề, trơ khung sắt. Bây giờ, chính quyền thành phố đang phải đối mặt với lựa chọn khó khăn: sửa chữa tốn kém hay phá bỏ hoàn toàn - một kết cục gây lãng phí vô cùng lớn.
Được xây dựng từ năm 2004, chỉ sau một năm đầu hoạt động sôi nổi (với sự hào hứng của các cư dân như tôi), các sự kiện tại "Nhà cánh diều" thưa dần rồi gần như vắng bóng. Công trình với quy mô hàng chục hecta, sức chứa hàng nghìn người, chỉ tổ chức được vài sự kiện mỗi năm. Để duy trì hoạt động, đơn vị quản lý đã cho các doanh nghiệp thuê lại mặt bằng làm kho chứa hàng. Việc xe nâng, xe tải thường xuyên ra vào đã làm hư hỏng nền gạch và kết cấu bên trong. Dù đã có những đề xuất điều chỉnh quy hoạch, kêu gọi đầu tư từ năm 2010, nhưng đến nay hầu hết các hạng mục vẫn "nằm trên giấy". Để rồi có kết cục hôm nay.
Nó trở thành một đại diện cho hàng loạt tính chất của nhiều công trình công cộng tại Việt Nam: đầu tư theo phong trào, thiếu tầm nhìn dài hạn; khai thác kém hiệu quả; chuyển đổi công năng sai mục đích; thiếu cơ chế thu hút nguồn lực xã hội; chỉ xây, không sửa; và cuối cùng là thiếu cơ chế quy trách nhiệm cho đơn vị quản lý.
Nhà cánh diều không phải là câu chuyện lãng phí lớn nhất, nhưng nó có tính biểu tượng cao: công trình tiêu biểu của một thành phố lớn nhất đất nước, từ chỗ sinh ra để chăm sóc đời sống tinh thần của nhân dân, khi "bí ý tưởng" đã trở thành… kho chứa hàng, tức là loại hình công trình kiến trúc ít giá trị gia tăng nhất. Kho chứa hàng chỉ cần là một hình lập phương, chứ không cần một kết cấu thép mái uốn cong đầy nghệ thuật. Ở đây, sau khi được cho đi học mỹ thuật, chỉ một vài năm không làm ra tiền, ngay lập tức người con thứ này đã bị ép ra chợ đầu mối làm bốc vác, dùng đôi bàn tay búp măng được đào tạo để cầm cọ, vác những bao khoai tây hòng kiếm chút tiền lẻ.
Không khó để tìm những bi kịch tương tự ở khắp miền đất nước, với những hạ tầng văn hóa và thể thao bị biến thành nơi nhặt tiền lẻ - cao thì cho thuê tổ chức tiệc cưới, thấp thì làm kho chứa hàng - chỉ vì cơ quan chủ quản… không còn biết làm gì với nó.
Một đất nước sẽ không thể phát triển nếu thiếu đi những công trình văn hóa, những hạ tầng chăm sóc đời sống tinh thần của người dân. Chúng không phải lúc nào cũng làm ra tiền ngay. Chúng cần một chiến lược khai thác hiệu quả, lâu dài, thậm chí là cơ chế để sử dụng ngân sách cho văn hóa duy trì hoạt động liên tục. Điều đáng nói là ngân sách chi cho phát triển văn hóa lúc nào cũng có, nhưng để tổ chức một sự kiện có ý nghĩa, trên hạ tầng đã xây dựng, lại luôn cần một kế hoạch dài hơi.
Ví dụ, một thành phố có thể có một nhà triển lãm đẹp, và 100 tỷ mỗi năm cho các chương trình xúc tiến thương mại, du lịch. Nhưng nếu thiếu một kế hoạch, họ sẽ vẫn không thể tổ chức nổi 2 hoặc 3 cái hội chợ xúc tiến. Họ vẫn bỏ hoang cái nhà triển lãm và phải giải ngân 100 tỷ kia cho chuyện ít ý nghĩa hơn (xây cổng chào chẳng hạn).
Hoặc, cũng là 100 tỷ, và cũng có một nhà thi đấu lớn, nhưng tổ chức được giải thể thao hay không, lại cần một tầm nhìn chiến lược khác. 100 tỷ vẫn có thể bị tiêu phí và nhà thi đấu có thể vẫn bị bỏ hoang. Thực tế, chúng bị bỏ hoang rất nhiều ở khắp miền đất nước.
Nếu không nghiêm túc nghĩ về chiến lược cho những nhà triển lãm, những nhà hát, bảo tàng, nhà thi đấu, sân vận động đã và sẽ được xây khắp miền đất nước, sẽ đến một lúc chúng ta không có gì hơn là một chuỗi trung tâm tiệc cưới hoặc kho chứa hàng được thiết kế cầu kỳ.
Đức Hoàng
Trước cửa nhà tôi là của chúng ta
"Trước cửa nhà tôi là của tôi", chắc hẳn không ít lần chúng ta đã nghe được câu khẳng định này trong những cãi vã đời thường khi một ai đó vô tình (hoặc cố ý) đậu xe trước mặt tiền nhà ai đó. Nó là một khẳng định chắc nịch như chân lý, nhưng lại vô cùng phi lý. Và chính từ câu hỏi cần trả lời rõ "của ai?", chúng ta sẽ mở ra được nhiều hơn nữa những câu trả lời cho nhiều vấn đề còn tồn đọng bao năm qua liên quan tới tài sản công cộng.

Đất đai vẫn luôn là câu chuyện nóng hổi nhất trong xã hội Việt Nam nhiều thập niên rồi và gần như tất cả mọi người đều hiểu, hiến pháp quy định quyền sở hữu đất đai ở Việt Nam là quyền của toàn dân. Nói nôm na, đất đai là sở hữu toàn dân. Phải nhắc tới đất đai là bởi vì có vô số tài sản công cộng đang ngự trị trên đất đai ấy mà sự thực là nhiều năm qua, chúng ta chưa minh định về chúng một cách rạch ròi.
Khi hiến pháp đã quy định như vậy, điều đó đồng nghĩa 100% tài sản công ở Việt Nam chính là tài sản công cộng. Nhà nước chỉ thay mặt toàn dân quản lý và khai thác các khu đất (tài sản công cộng) kia mà thôi và dưới danh nghĩa ấy, chúng được gọi là tài sản công. Chuyện quản lý tài sản công thế nào, chúng ta sẽ không bàn ở đây vì mọi thứ đều có quy định pháp luật rõ ràng, ai làm sai, người đó phải chịu trách nhiệm. Nhưng còn về tài sản công cộng thì sao? Có cách nào để chúng không mập mờ dưới danh nghĩa tài sản công và nhiều khả năng bị trục lợi bởi tư nhân một cách trái phép?
Những người sinh ra và lớn lên (hoặc đã sống lâu năm) ở TP Hồ Chí Minh sẽ khó có thể quên được một địa điểm rất đẹp ở ngay trung tâm thành phố, trên trục đường Đồng Khởi, ngay gần nhà thờ Đức Bà, đã từng được gọi tên là Công viên Chi Lăng. Ngày nay, nó vẫn là cái công viên nhưng công năng của nó không còn được như cách đây 30 năm. Sau khi tòa nhà tráng lệ mọc lên, nó bị nhiều người hiểu mặc định là một công viên phục vụ cho tòa nhà ấy là chính. Người dân cũng ngại sinh hoạt công cộng ở đó. Thay cho thói quen cũ, họ tiến ra chỗ vỉa hè, gần sát hơn với lòng đường. Cái hiểu mặc định ấy đến từ đâu?
Thực tế, cái hiểu mặc định ấy đến từ một tập quán là có quá nhiều tòa nhà sau khi được khánh thành đã chiếm luôn khuôn viên công cộng trước mặt và mặc nhiên coi đó là tài sản họ quản lý. Dân chúng vãng lai qua đó rất dễ bị bảo vệ xua đuổi. Điều đó dẫn tới cái ngại ngần của người dân như cách họ biểu hiện ở công viên Chi Lăng dù ở đó không có ai đuổi khách vãng lai cả. Nhưng dường như đã tồn tại một suy nghĩ chung rằng phần đất trước mỗi tòa nhà sẽ nghiễm nhiên thuộc về tòa nhà.
Một ví dụ khác, dễ thấy hơn, là đại lộ Lê Lợi ở TP Hồ Chí Minh, khu vực chỗ từ khách sạn Rex kéo dài tới gần bùng binh chợ Bến Thành. Người dân TP Hồ Chí Minh đã quá quen với việc dăm bữa nửa tháng lại cấm đường để cho thuê làm sự kiện. Đỉnh điểm vẫn luôn rơi vào cuối năm, khi mà nhiều nhãn hàng đều muốn chạy các chương trình quảng bá. Thế là dàn âm thanh hai bên đường được phen khoe tài. Chỉ có một thứ không bao giờ được khoe. Đó là công dân TP Hồ Chí Minh chưa bao giờ được biết giá thuê một con đường như thế là bao nhiêu tiền một ngày và tiền đó sẽ được sử dụng cho mục đích công cộng nào?
Cũng chỉ vài ngày trước đại lễ kỷ niệm Quốc khánh 2/9/2025 thôi, ngay khu vực bên cạnh khách sạn Rex đó là một chương trình lễ hội của một nhãn hàng bia dành cho các cổ động viên của một CLB bóng đá nước Anh. Trong khi đó, sân khấu phục vụ cho chương trình ca nhạc hướng tới đại lễ lại được dựng ở phố đi bộ Nguyễn Huệ. Buổi sáng, công dân thành phố đi làm phải chấp nhận tình trạng xe cộ ùn ứ mà thực tế không hiểu chương trình buộc mọi thứ phải ùn ứ lại như thế để phục vụ cái chung hay chỉ khu biệt cho một nhãn hàng. Nhưng họ đã quá quen với sự ùn ứ ấy rồi. Không ai thắc mắc cả. Một khi không ai thắc mắc, mọi thứ sẽ vẫn xảy ra như một lẽ thường tình.
Cái cách cả TP Hồ Chí Minh, Hà Nội lẫn một số đô thị khác đang "giao" lòng đường, vỉa hè cho một hãng xe điện dựng lên các cây sạc cũng phi lý y như thế. Tất cả các địa điểm đó đều là tài sản công cộng và các tài sản đó nếu được mang ra khai thác cho dịch vụ, thương mại, chúng phải được thông qua ý kiến nhân dân hoặc chí ít cũng là các đại diện của nhân dân một cách công khai. Rồi kéo theo đó phải là các công khai, minh bạch về thu và chi. Có vẻ như, đã có sự hiểu sai về những tài sản công cộng này khi chúng đang được ứng xử như những tài sản công.
Gần với đời sống hơn nữa chính là câu chuyện thử nghiệm cho các hộ kinh doanh dịch vụ thuê lại vỉa hè. Đây là một chủ trương đúng đắn, nhất là khi chúng ta có quá nhiều thành phố thu hút khách du lịch dẫn tới nhu cầu đời sống đô thị về đêm. Nhưng cho thuê như thế nào để vừa đạt hiệu quả thu ngân sách, vừa giữ được mỹ quan chung lại là câu chuyện khác. Chúng ta mới chỉ đơn thuần ký hợp đồng và để mặc người thuê khai thác trong khi sâu xa hơn, có nhiều việc rất cần phải làm. Ở nước ngoài, muốn thuê vỉa hè, người thuê phải đăng ký kinh doanh, xác định ngành hàng kinh doanh, đưa thiết kế các bàn ghế, thiết bị mà họ sẽ bày ra ở diện tích vỉa hè được thuê với số lượng đăng ký cụ thể là bao nhiêu đơn vị. Khi đã được duyệt, hợp đồng thuê mới được ký kết và chỉ cần vi phạm bất kỳ quy định nào quá số lần cho phép, người thuê sẽ bị rút giấy phép và cấm thuê vỉa hè trong một khoảng thời gian nhất định. Chính điều đó tạo nên mỹ quan chung trên khoảng tài sản công cộng đang được khai thác thương mại kia. Và vượt trên hết, người dân trong đô thị luôn dễ dàng trong việc kiếm tìm tài liệu liên quan tới cách chính quyền đô thị khai thác tài sản công cộng cũng như sử dụng tiền thu được từ việc khai thác này. Hình mẫu tiến bộ đó, ở Việt Nam chưa được bất kỳ địa phương nào áp dụng. Thêm vào đó, cũng gần như không có tuyên truyền nào để người dân nắm được mình đang giữ những quyền lợi gì trên các tài sản công cộng.
Trong các cuộc cãi vã kiểu "Ai cho cậu đậu xe trước cửa nhà tôi" luôn vẫn có câu trả lời "đây là khu vực công cộng mà". Thực tế, người dân vẫn hiểu và hình dung (tuy mơ hồ) về những thứ sở hữu toàn dân nhưng chúng ta chưa có một công cụ hữu hiệu nào để giám sát, quản lý và bảo vệ các tài sản công cộng ấy. Chính vì lẽ đó, đã có không ít tài sản công cộng bỗng nhiên một ngày đẹp trời trôi về phía sở hữu tư nhân, và từ đó, bắt đầu nảy sinh những bức xúc xã hội.
Khi cả nước hay thậm chí chỉ cần cả thành phố thôi cần một hoạt động chung hướng tới sự nghiệp chung, không người dân nào cảm thấy khó chịu khi tài sản công cộng được trưng dụng trong ngắn ngày cả. Nhưng nếu sự trưng dụng ấy không phải để phục vụ sự nghiệp chung, và chỉ để một vài đơn vị, cá nhân nào đó được hưởng lợi, chắc chắn sẽ có những phản ứng từ công cộng. Cái mà những người "đồng sở hữu" cần thật ra không phải là ngăn cấm cá nhân hay đơn vị nào tạm thời sử dụng tài sản chung của mọi người mà thực tế, họ chỉ cần được biết hai yếu tố cơ bản nhất: thu được lợi ích gì và lợi ích đó sẽ được tái đầu tư vào mục đích công cộng nào. Khi ấy, người dân ắt sẽ nhìn thấy quyền lợi chủ sở hữu của mình trong đó và họ chắc chắn tiếp nhận sự việc một cách thanh thản nhất.
Vì thực ra, mọi người dân điều hiểu rằng "trước cửa nhà tôi là của chúng ta".
Hà Quang Minh