Sách giáo khoa: Nền tảng trụ cột của giáo dục
LTS: Các chính sách hướng tới những cải thiện cho giáo dục Việt Nam đang được đưa ra và áp dụng trong thời gian tới đang thu hút đặc biệt sự quan tâm của dư luận. Một trong những thay đổi là chính sách về sách giáo khoa (SGK), với chủ trương một bộ SGK thống nhất toàn quốc. Từ lăng kính này, làm cách nào để bộ SGK chuẩn ấy có độ “bền tri thức” và đóng góp mạnh mẽ vào việc cải cách chất lượng con người cho nhiều thế hệ sau?
Cần ước tính chi phí cơ hội
Một trong những lần vỡ mộng lớn của tôi thời kỳ đi học là sau khi hoàn tất 12 năm phổ thông, dù là học sinh chuyên Anh và có điểm số khá cao, tôi gần như… không thể hiểu được người bản xứ nói gì, trong lần đầu tiên giao tiếp trực tiếp với họ bằng tiếng Anh.
1. Sau này, tôi buộc phải theo học các chương trình ngoại ngữ khác, để có thể giao tiếp được. Thực tế các công ty thời đó khi tuyển dụng cũng đòi hỏi các ứng viên ít nhất có trình độ tiếng Anh bằng B, bằng C, khi cảm thấy việc học ngoại ngữ trong nhà trường là chưa ổn. Mất mấy năm sau, tôi mới tự tin là mình đã nắm vững tiếng Anh.
Trong suốt 12 năm phổ thông, một học sinh bình thường như tôi phải học gần 1.300 tiết tiếng Anh, tương đương khoảng một ngàn giờ học tiếng Anh, chưa kể thời gian học ở nhà và ôn thi. Vậy mà vẫn chưa sử dụng thành thạo được!
Lý do là chương trình tiếng Anh trong trường phổ thông, bao gồm cả SGK, khá nặng về phần ngữ pháp, trong khi cốt lõi của việc học ngôn ngữ đầu tiên là giao tiếp được. Chúng tôi được hướng dẫn học thuộc câu mẫu, sau đó thực hành thay thế từ (substitution), biến đổi cấu trúc (transformation), tạo câu mới và dịch sang tiếng Việt hoặc ngược lại.
Phải đến khi tiếp xúc với các chương trình khác, tôi mới hiểu một tinh thần cơ bản của học ngoại ngữ: ban đầu không cần phải đúng hết, nhưng phải dám nói, mới có thể tiến bộ.
Ngoài chuyện tốn tiền, thì thứ đã mất vĩnh viễn là thời gian, nôm na là các chi phí cơ hội. Nếu một học sinh có thể tự tin giao tiếp tiếng Anh sau khi kết thúc chương trình phổ thông cơ bản, ở thời của tôi, học sinh đó có lợi thế lớn về việc làm nói riêng và sự nghiệp nói chung sau này.
2. Từ năm 2026, thực hiện Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo đảm bảo cung cấp một bộ SGK thống nhất trên cả nước, tiến đến miễn phí SGK vào năm 2030.
Đây là chủ trương sẽ tiết kiệm chi phí cho giáo dục. Theo ước tính thì gia đình mỗi học sinh sẽ không phải trả khoảng từ 40.000 - 90.000 đồng chi phí cho SGK hiện tại mỗi năm và hướng đến 2030 là miễn 100% (khoảng 200.000 đồng trở lên tùy cấp học với chính sách nhiều bộ SGK hiện tại). Các đơn vị xuất bản cũng không còn phải chi hàng trăm tỷ mỗi năm để biên soạn 4-5 bộ SGK nữa.
Tôi không có đủ dữ liệu xã hội để biết rằng điều gì là tốt hơn, chỉ xin đặt một vấn đề mà chúng ta dễ bỏ qua: chi phí cơ hội.
Nếu được quay lại thời phổ thông, tôi hẳn sẽ muốn nhà trường áp dụng các giáo trình ngoại ngữ từ bên ngoài, để khắc phục những thiếu sót về giao tiếp và sử dụng tiếng Anh. Tự tin dùng ngoại ngữ vào thời của tôi mở ra rất nhiều cơ hội nghề nghiệp từ sớm, và có thể thúc đẩy sự nghiệp sớm vài năm. Việc có nhiều bộ sách ở một số môn như tiếng Anh chỉ là thêm lựa chọn để tránh mất chi phí cơ hội: nếu có một nội dung nào đó mà chương trình SGK chính quy chưa đáp ứng tốt, học sinh ít nhất sẽ được biết về lựa chọn khác đó, mà không phải chờ đến khi kết thúc chương trình phổ thông, hoặc qua các lớp học thêm.
3. Một nghiên cứu mới về chi phí cơ hội về ảnh hưởng của giáo dục ở Việt Nam cho thấy cứ mỗi năm giáo dục tốt có thể giúp tăng 8-12% thu nhập suốt đời sau này, nhưng ở những nơi hiệu quả giáo dục thấp, thì con số này chỉ còn 4-6%. Những thay đổi giáo dục lớn đều sẽ tạo ra thay đổi đáng kể về GDP quốc gia trong tương lai.
Trung Quốc từng áp dụng một bộ SGK thống nhất, nhưng từ năm 2000 đã chuyển sang “một cương lĩnh, nhiều bộ SGK” để đáp ứng nhu cầu vùng miền đa dạng. Kết quả là chất lượng giáo dục được cải thiện, tăng điểm PISA giáo dục 10-15% ở khu vực nông thôn, và tăng GDP đóng góp từ giáo dục lên 20%.
Trong các câu chuyện cải cách liên quan đến giáo dục, chúng ta hay sử dụng đánh giá định tính, liên quan đến “khai phóng”, hoặc “xóa nhòa bất bình đẳng”, nhưng với tư cách một công dân muốn đóng góp cho đất nước trong kỷ nguyên vươn mình, thì giáo dục có ý nghĩa rất lớn với phát triển kinh tế và nâng cao vị thế quốc gia.
Vì giáo dục là câu chuyện hiện tại kết nối tới tương lai lâu dài và có tác động cụ thể lên từng thế hệ, rất cần ước tính chi phí cơ hội để có thể thiết kế ra một chương trình sách giáo khoa thực sự chất lượng, có độ “bền tri thức” bất chấp các thay đổi ngoại vi, để từ đó đặt nền tảng cho một xã hội Việt Nam với chất lượng con người ngày càng được cải thiện hơn thông qua giáo dục phổ thông.
Phạm An
Điều không có trong sách giáo khoa
Sau một thập kỷ bàn luận và thử nghiệm, phương án “một bộ SGK thống nhất” được lựa chọn trở lại. Nhưng điều đó không cản trở xu hướng đa dạng hóa và sáng tạo trong dạy-học.
Tôi, cũng như nhiều học sinh đến trường trong thập kỷ 2000, coi môn văn là một môn học thuộc lòng. Ngay từ trong cách dạy, nó đã được xây dựng thành hai hệ thống văn bản và một “học sinh giỏi Văn” sẽ là người học thuộc cả hai hệ thống đó: ngữ liệu trong sách – tức là các bài thơ, bài văn, đoạn trích, tiểu sử tác giả - và phân tích của thầy cô. Chúng tôi chép kín các trang vở những “bài phân tích”, gạch chân các tiêu đề, mà có thể không cần hiểu chúng.
Thầy giáo dạy Văn năm lớp 8 của tôi (năm học 1999-2000) thỉnh thoảng sẽ dành một buổi dạy để chia sẻ về các đề thi học sinh giỏi văn. Và tôi vẫn nhớ cảm giác ngỡ ngàng của mình khi lần đầu biết đến thứ đề văn đó. Một bài văn hoặc bài thơ được chọn ngẫu nhiên, không có trong sách giáo khoa, và người thi phải phân tích nó ngay trong lần đầu được đọc? Sao có thể làm thế được? Trình độ của các thí sinh này cao siêu đến mức nào? Năm đó thầy tôi dành một tiết học để nói về bài “Sang Thu” của Hữu Thỉnh – một tác phẩm chỉ xuất hiện trong các tiết ôn thi của đội tuyển văn. 25 năm sau, tôi vẫn nhớ cảm giác của mình trong lớp khi đó: tôi không hiểu một-tí-nào về cái bài thơ 12 câu này.
Tất nhiên là tôi không hiểu, bởi vì “Sang Thu” của Hữu Thỉnh không đại diện cho bối cảnh lịch sử (như kiểu “Tây tiến”, “Từ ấy”, “Đất nước”), không biểu trưng cho giai đoạn văn học cụ thể (như “Bạn tới chơi nhà”, “Đây mùa thu tới”, “Vội vàng”), không thuộc về một “cú pháp phân tích” nào mà tôi đã được học. Nó chỉ là một tác phẩm mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống thuần túy, nâng niu hiện thực bằng ngôn từ. Nó chỉ là văn học.
Sau này, có lần, ngồi với một lãnh đạo ngành Giáo dục, tôi chia sẻ: “Em luôn có cảm giác rằng mình chưa bao giờ được học văn học, mà luôn chỉ được học lịch sử văn học”. Chúng tôi nhớ năm sinh và quê quán tác giả, bối cảnh sáng tác và giá trị lịch sử của tác phẩm, chứ không hiểu mấy về vẻ đẹp của câu từ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nhận thức được tình trạng này. Xu hướng sử dụng ngữ liệu ngoài SGK đã xuất hiện từ thập kỷ trước, trong các đề thi chung. Nhiều trường và địa phương cũng học theo xu hướng đó, đưa các tác phẩm ngoài SGK vào đề thi. Năm học 2024-2025, Bộ yêu cầu các trường không sử dụng ngữ liệu trong SGK cho kiểm tra, và sự sáng tạo phát huy đến tận cấp trường.
Những đề thi “gây tranh cãi”, những đề thi “hot trên mạng”, những đề thi có cả Sơn Tùng MTP, Đen vâu… và những tác phẩm đương đại, liên tục xuất hiện. Nó có thể gây khó hiểu cho nhiều phụ huynh lớn lên cùng thời đại với tôi, khi cái quyền học vẹt bị tước đi phũ phàng. Nhưng đó là một tín hiệu vui.
Điều này thể hiện một xu hướng trong giáo dục phổ thông. Môn Văn chỉ là một đại diện. Trong môn tiếng Anh, sự sáng tạo trong đề thi đã yêu cầu học sinh phải cập nhật cả các thuật ngữ tiếng Anh hiện đại, có tính thời sự - như “greenwashing” (tẩy xanh) trong đề thi tốt nghiệp THPT vừa qua. Môn Toán tất nhiên là một môn không thể thi bằng các bài trong sách, và các đề kiểm tra môn này cũng có truyền thống sáng tạo từ xa xưa. Ngay từ cấp trung học cơ sở, đề thi toán của các bạn nhỏ cũng luôn có một câu “lấy điểm 10” đòi hỏi kỹ năng giải quyết vấn đề vượt qua chương trình được dạy.
Như thế, việc sử dụng một bộ SGK thống nhất không xung đột với xu hướng sáng tạo trong dạy học, đa dạng hóa việc truyền đạt kiến thức. Nó sẽ trở thành một xu hướng không thể đảo ngược. Các thầy cô không chỉ ra đề. Ở nhiều trường, họ đang đọc cho học sinh những cuốn sách không hề có trong chương trình. Sự đa dạng này có thể lại gây khó chịu cho nhiều phụ huynh tin rằng “SGK và chỉ một bộ SGK là đủ”, nhưng đã trở thành một niềm tin chung của ngành Giáo dục hiện đại.
SGK chỉ cung cấp các phương pháp luận nền tảng. Kiến thức không gói gọn trong đó, mà phải đến qua một quá trình thúc đẩy của thầy cô, để các em tiếp nhận từ cuộc sống muôn màu. SGK lúc này chỉ còn là con thuyền trong hành trình khám phá một dòng sông mênh mông, với thầy cô là mái chèo.
Nhưng cùng với tín hiệu vui đó là khá nhiều xung đột mới xuất hiện cần được giải quyết: Ở một số nơi, thầy cô than phiền rằng vì biết chắc chắn kiểm tra sẽ không sử dụng ngữ liệu trong sách, rốt cuộc các em lại… không tập trung vào việc học những gì trong sách. Ở một vài nơi khác, đề thi cấp trường sáng tạo tới mức thiếu cả các yêu cầu tối thiểu của Bộ Giáo dục và Đào tạo (yêu cầu về kiểm tra kỹ năng đọc hiểu). Ban ra mệnh lệnh “không dùng ngữ liệu trong SGK” thì dễ, nhưng làm thế nào để đạt hiệu quả mới khó. Cứ trích bất kỳ ca khúc Vpop thời thượng nào mà thầy cô thích nó sẽ thành một đề kiểm tra văn? Yêu cầu các em đọc hiểu một bài báo trên The New York Times hay The Guardian sẽ thành một bài kiểm tra ngoại ngữ? Việc thúc đẩy các biên giới mới, trong một lĩnh vực như giáo dục, không thể diễn ra một sớm chiều.
SGK không phải là thuốc thần. Và tiết kiệm – từ khóa hay được dùng khi bàn về vấn đề sách giáo khoa – chắc chắn không phải là tiêu chí cơ bản của giáo dục. Công cuộc nâng cấp ngành giáo dục vẫn cần quay trở về những câu hỏi cốt lõi và đau đáu khác: chất lượng nguồn nhân sự, chi phí đào tạo nguồn nhân sự, hạ tầng giáo dục, tổng chi phí cho giáo dục trên GDP… Sau khi đã thống nhất được một bộ sách, ta cần nhận thức rằng mình mới chỉ có một con thuyền, nhưng nhiệm vụ của ngành giáo dục không phải là để giữ mọi người nổi trên mặt nước. Người học cần được đi thật xa, bằng những mái chèo hay động cơ hiện đại.
Đức Hoàng
Cương lĩnh đi trước, sách giáo khoa theo sau
Kể từ năm học 2026- 2027, học sinh cả nước sẽ chỉ sử dụng một bộ SGK thống nhất. Thông tin này nhận được sự ủng hộ của rất nhiều người, sau một khoảng thời gian khá dài thị trường SGK bị xem là khá lộn xộn. Song nó cũng khiến một số người khác đặt ra câu hỏi phản biện về tính đa dạng trong giáo dục kiến thức phổ thông.
Thật ra, những người đưa ra câu hỏi về tính đa dạng cũng có cái lý của họ khi dựa trên mối lo xoay quanh “độc quyền kiến thức”. Nói nôm na, việc đưa ra một bộ SGK thống nhất đồng nghĩa với việc nhiều thế hệ học sinh cả nước sẽ phải học trên nền tảng đúc kết của một nhóm tác giả biên soạn duy nhất. Vấn đề là đúc kết nền tảng của nhóm biên soạn đó có phải là chuẩn mực chân lý, chuẩn mực kiến thức hay không? Và những người lựa chọn nhóm tác giả biên soạn này có đủ tâm và tầm để dám chắc chắn nhân sự mình lựa chọn là tối ưu nhất? Vượt trên hết, nếu có những hệ lụy ảnh hưởng sau này, trách nhiệm đối với nhiều thế hệ sẽ được đặt lên vai ai và việc chịu trách nhiệm đó có tương xứng với kết quả không mong muốn hay không?
Từ tất cả những ý kiến ủng hộ lẫn phản biện kể trên, chúng ta cần giải quyết câu hỏi trước mắt là “bộ SGK thống nhất nên được hiểu là gì?”. Phải chăng, bộ SGK thống nhất được hiểu theo nghĩa đen là những cuốn sách đơn thuần trong tổng thể một bộ sách được in rập khuôn giống y nhau để đưa vào hệ thống giáo dục? Hay nó cần được hiểu theo nghĩa bóng là một bộ sách chuẩn về các kiến thức nền tảng và có thể được thay đổi linh hoạt tùy địa phương dưới hình thức các tiêu bản phái sinh khác nhau một chút ở những chi tiết nhỏ?
Nghe bắt đầu thấy rắc rối thật sự và dễ dẫn chúng ta quay trở lại với những tranh cãi không cần thiết theo kiểu “một bộ SGK thống nhất thì tốt hơn (hay dở hơn) nhiều bộ SGK?”. Tranh cãi kiểu này chắc chắn không có hồi kết khi các bên đều có thể mang ví dụ từ những nền giáo dục của những nước tiên tiến về khoa học, công nghệ, kinh tế, xã hội… ra để làm điểm tựa. Trong khi đó, thực tế việc giảng dạy cho học sinh người Việt luôn cần theo phương pháp phù hợp với người Việt cũng như đời sống xã hội Việt Nam.
Song, không phải không có những ví dụ quý giá cần tham khảo như kinh nghiệm kiểm chứng từ các nước láng giềng. Hãy nhìn vào Trung Quốc, một quốc gia có nền giáo dục khó có thể nào bị phủ nhận vào chất lượng. Cách học sinh tiểu học của họ bắt đầu với môn ngữ văn khác rất xa so với thời kỳ phong kiến với nền tảng cơ bản là Tam thiên tự. Cách học và tiếp cận ngữ văn của học sinh tiểu học Trung Quốc không còn là học vẹt nhớ mặt chữ như thời xa xưa mà chú trọng vào ngữ cảnh và chủ đề. Nhưng có một thứ so với giáo dục thời phong kiến không bao giờ thay đổi trong lối học ngữ văn của người Trung Quốc. Đó chính là “Văn dĩ tải đạo”. Cả trong cách học từ Tam thiên tự hay cách học theo SGK ngữ văn tiếng Trung hôm nay, học sinh tiểu học Trung Quốc đã được tiếp nhận từ một giáo trình mang sứ mệnh giáo dục cả đạo đức và nhân cách.
Cái sứ mệnh ấy chính là tinh hoa, tinh túy và nền móng cơ bản không thể bị lung lay của SGK và cho dù có áp dụng một bộ sách thống nhất hay nhiều bộ sách đa dạng, bản chất cơ bản của nền tảng giáo dục vẫn không thay đổi chút nào.
Vậy thì vấn đề của giáo dục Việt Nam hiện nay không chỉ nằm ở câu chuyện một bộ SGK thống nhất hay nhiều bộ SGK đa dạng. Một bộ SGK thống nhất sẽ giúp giữ cho công tác giáo dục được ổn định trên cả nước nhưng nó chỉ phát huy hết tác dụng nếu nó mang tính “bí kíp”. Nói nôm na, nó phải là một bộ sách không thể bị lạc hậu cho dù xã hội có thay đổi đến như thế nào chăng nữa.
Do đó, cái mà chúng ta cần nhất trước khi đưa ra một bộ SGK thống nhất chính là một cương lĩnh giáo dục. Từ cương lĩnh giáo dục đó, thiết kế nền tảng kiến thức cơ bản và phương pháp thể hiện kiến thức nền tảng cơ bản bằng văn bản học liệu (SGK). Cương lĩnh giáo dục đó chính là “đạo” và tất cả những thứ còn lại chỉ là phương pháp thực hành mà thôi.
Một câu hỏi thú vị mà chúng ta có thể cùng nhau mổ xẻ ở đây chính là chuyện tại sao học sinh Việt Nam nhiều năm qua rất “ú ớ” về lịch sử? Sự “ú ớ” đó từng khiến chúng ta cho rằng môn lịch sử khô khan và không hấp dẫn học trò nhưng khi chứng kiến những tham gia say sưa của học trò trong các diễn đàn về lịch sử, trong các sự kiện văn hóa, xã hội giới thiệu về lịch sử, dường như nguyên nhân đến từ chính học liệu và phương pháp giảng dạy bộ môn này. Cương lĩnh giáo dục cho môn lịch sử là gì? Câu hỏi này chắc chắn sẽ gây ra nhiều tranh luận. Đơn giản, chúng ta chưa từng định ra một cương lĩnh giáo dục rõ ràng cho từng môn học và kết cục là học sinh vẫn phải đến trường với chiếc cặp nặng hơn chục cân toàn SGK mà gần như lĩnh hội được rất ít kiến thức cơ bản nhất để nuôi dưỡng trí và đức của một con người.
Tiết kiệm, chống lãng phí luôn là quốc sách và việc SGK năm nào cũng dùng xong bỏ đi là điều cần phải được xóa bỏ. Tuy nhiên, đối với giáo dục, mục tiêu lớn nhất không chỉ là chuyện tối ưu hóa về kinh tế trong sử dụng một bộ SGK. Mục tiêu lớn nhất phải là tạo ra những thế hệ người Việt dần ưu việt hơn thế hệ đi trước cả về năng lực lẫn thái độ. Bộ SGK phải là thứ kim chỉ nam về “bí kíp” nền tảng của dân tộc chứ không chỉ đơn thuần là một học liệu mà bắt buộc mỗi con người sẽ phải trải qua một cách máy móc.
Còn về chuyện chống lãng phí, minh bạch trong cách ấn bản SGK thì không quá khó. Chỉ cần xuất bản SGK dùng nhiều lần (không phải loại sách mà học sinh làm bài tập trực tiếp trên sách như nhiều năm qua), có cơ chế cho học sinh mượn (như mấy chục năm trước), chỉ giao độc quyền quản lý khai thác bản quyền SGK cho Bộ Giáo dục và Đào tạo chứ không giao quyền xuất bản cho vài NXB như bao năm qua và mọi NXB đều có quyền tiếp cận để mua bản quyền từ Bộ Giáo dục và Đào tạo…, việc chống lãng phí, minh bạch cũng như đa dạng hóa sản phẩm SGK sẽ được giải quyết. Đó là chuyện không quá lớn, không nhiều thách thức. Cái cần hơn cả chính là cương lĩnh giáo dục bởi từ chính cương lĩnh ấy, một xương sống cho hệ thống biên soạn SGK mới có thể hình thành.
Có cương lĩnh giáo dục tốt rồi, chuyện sử dụng, thay đổi nhóm biên soạn, chỉnh sửa sách theo thời gian cũng không còn gây rắc rối và phức tạp cho người dạy hay người học nữa. Ngược lại, nếu không có một cương lĩnh giáo dục, ai dám chắc 10 năm sau chúng ta không đổi SGK lần nữa? Trong khi đó, đòi hỏi cho một bộ SGK phải lâu dài hơn những khoảng thời gian chỉ tính bằng năm.
Hà Quang Minh

Cung cấp sách giáo khoa miễn phí: Hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền giáo dục phổ cập và công bằng
Sách giáo khoa của NXBGDVN kịp thời đến với học sinh vùng khó