Nông thôn không được buồn

Thứ Năm, 27/03/2025, 08:52

LTS: Nông thôn mới, đó là khái niệm được nhắc tới nhiều. Nhưng chúng ta dường như chưa bao giờ nghiêm túc với một mục tiêu "Nông thôn phải thu hẹp khoảng cách tinh thần so với thành thị". Thêm công trình mới, thêm thu nhập là tối quan trọng song nông thôn không được phép buồn, để người dân ở đó phải cảm thấy ngay ở quê hương mình, họ không mặc cảm tụt hậu quá xa so với thành thị.

Xây thêm nhà văn hóa

Cách đây 3 năm, tại quê vợ tôi, một ấp nhỏ gần biên giới Campuchia, người ta mới xây thêm một nhà văn hóa. Công trình cũng chẳng tốn bao nhiêu tiền: một căn nhà cấp 4, ba gian nằm gọn lỏn trong một khu đất vuông vắn, có cổng rào lại, và người ta nhận ra nó là nhà văn hóa nhờ dòng chữ “NHÀ VĂN HÓA” phía trước.

Nông thôn không được buồn -1

Đến giờ thì xung quanh nó, cỏ dại mọc đầy. Thi thoảng nhà văn hóa mới được sử dụng, để trẻ con tụ tập chơi Trung thu và được phát quà. Một vài lần trạm y tế quá tải, nó được trưng dụng làm chỗ tiêm chủng. Đôi khi có nhà xin dùng tạm để tổ chức đám cưới. Ai thích dùng vào việc gì thì nó thành việc nấy, vì nghĩ ra việc cho cái nhà văn hóa cũng khó.

Tóm lại, đấy là một không gian công cộng rất khó định nghĩa. Khó hệt như nỗ lực tìm một định nghĩa bao quát cho từ "văn hóa".

Trong Thông tư xét duyệt "Xã đạt chuẩn nông thôn mới" năm 2011, thì có nhà văn hóa là một tiêu chí quan trọng: "100% thôn (làng, ấp, bản và tương đương) có Nhà Văn hóa - Khu thể thao; trong đó 50% Nhà Văn hóa - Khu thể thao đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch".

Trong 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2017 - 2022, có 2 tiêu chí (số 6 và 16) có liên quan đến văn hóa, được diễn giải cụ thể là: 1) Có nhà văn hóa, nơi sinh hoạt cộng đồng; 2) Có tỷ lệ thôn, bản đạt tiêu chuẩn văn hóa theo quy định > 70%.

Năm 2022, bộ tiêu chí xã nông thôn mới đã bỏ bớt tiêu chí số 16, chỉ còn tiêu chí số 6, vẫn nhấn mạnh vào sự hiện diện của nhà văn hóa: "Tỷ lệ thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố (gọi chung là khu dân cư): có nhà văn hóa hoặc nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao phục vụ cộng đồng": đạt 100% theo tất cả các vùng".

 Chương trình nông thôn mới đã tròn 15 năm và đã thay đổi đáng kể diện mạo của các vùng quê: cho đến nay, khẩu hiệu "điện, đường, trường, trạm" hầu như đã được phủ sóng ở nông thôn. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến năm 2023, hơn 78% xã đạt chuẩn Nông thôn mới, với các tiêu chí như giao thông, thủy lợi và điện được hoàn thành ở mức cao.

 Bộ tiêu chí này là hệ quả của tư duy mô hình kinh tế 2 khu vực kinh điển của thế kỷ XX: khi khu vực kinh tế nông nghiệp (nông thôn) dư thừa lao động, dòng nhân lực sẽ chuyển sang khu vực thành thị để phát triển công nghiệp. Nông thôn chỉ cần hạ tầng đáp ứng những nhu cầu tối thiểu, để phục vụ cho làn sóng tăng trưởng thực sự phải diễn ra ở các đô thị, thủ phủ của công nghiệp và công nghệ.

 Và hệ quả là đến năm 2025, người ta vẫn tư duy rằng chỉ số đo lường đời sống tinh thần của người dân nông thôn cũng có thể quy về bài toán hạ tầng, bằng số lượng nhà văn hóa và tỷ lệ thôn, xã văn hóa. Một căn nhà cấp bốn chứa được trăm người và khắc lên "NHÀ VĂN HÓA" cũng đủ để bổ sung vào bộ tiêu chí thôn/xã nông thôn mới.

 Cách tiếp cận "ấn từ trên xuống" (top-down) này thực chất là một sự phủ định mạnh mẽ về mặt văn hóa. Những nhà văn hóa mọc lên bị bỏ hoang vì chúng được xây lên khi cộng đồng không có một mô hình để duy trì văn hóa truyền thống. Việc lấy thước đo là hạ tầng thuần túy không giúp cải thiện đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn.

Có một cách tiếp cận khác, mà nhiều địa phương đã làm được. Nếu có dịp đến xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang (Đà Nẵng), bạn hẳn đã từng đến và mua bánh tráng ở làng nghề Túy Loan. Ở đây, hiện có 15-20 hộ vẫn làm bánh tráng truyền thống phục vụ thị trường, và cứ đến Tết nguyên đán, cả làng lại cùng tụ họp lại để làm bánh tráng tại đình làng Túy Loan có lịch sử 500 năm.

Nghề làm bánh tráng ở đây đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Hòa Phong đã bám vào văn hóa truyền thống để người dân có thể tham gia một cách bền vững vào việc xây dựng các không gian tinh thần: họ khôi phục và tổ chức các lễ hội truyền thống như lễ hội đình làng Túy Loan. Các lớp dạy múa dân gian, hát dân ca (như hò khoan, bài chòi) được tổ chức cho thanh thiếu niên tại nhà văn hóa xã.

Bằng cách đề xuất các phương pháp tham gia, trong đó người dân - đặc biệt là những nhóm yếu thế như người nghèo, phụ nữ, người dân tộc thiểu số ở nông thôn - trở thành trung tâm của quá trình phát triển, địa phương có thể kiến tạo một không gian văn hóa tinh thần thực sự bền vững.

Vì thế việc duy trì văn hóa truyền thống luôn phải là con người, không phải các khối bê tông vô tri. Xây thêm nhà văn hóa mà không có con người tham gia làm gốc chỉ bổ sung thêm vào không gian công cộng một ngôi nhà đa năng, được sử dụng cho mọi mục đích có thể, trừ phục vụ văn hóa.

Phạm An

Tận dụng những cơ hội nuôi dưỡng đời sống tinh thần

Internet mở ra một kỷ nguyên rất khác. Nó thu hẹp rất nhiều khoảng cách địa lý. Một đứa trẻ ở góc sâu nhất, hiểm nhất trên thế giới vẫn có thể cập nhật tình hình ở châu Âu, châu Mỹ nếu nó được kết nối với internet hàng ngày. Nhưng internet cũng đánh lừa chúng ta về khoảng cách nông thôn - thành thị. Không phải cứ có internet là có tất cả. Vùng sâu, vùng xa cần nhiều hơn là một kết nối mạng…

Nông thôn không được buồn -2

Đầu tháng 3/2025, một buổi sáng, tôi ngỡ ngàng trước một phóng sự của VTV kể chuyện những người phụ nữ ở một thôn của Thái Bình. Họ, là nông dân nhưng lách giữa những công việc bộn bề nhà nông, khoảng thời gian trống là lúc họ có cơ hội để theo đuổi đam mê của mình: tập kèn. Để có thể được học kèn, chơi kèn rồi bây giờ là có thể biểu diễn kèn, họ đã phải đấu tranh chống lại mọi trở lực từ cổ điển nhất cho tới hiện đại nhất. Xem chặng đường của họ được tóm tắt lại trong chừng cỡ 10 phút, tôi xúc động và khâm phục. Và tôi bật ra câu hỏi: "Họ là hiếm hoi. Còn vô vàn người nông dân khác, ở các địa phương khác, họ đang được bao nhiêu phần trăm cơ hội để nuôi dưỡng đời sống tinh thần của mình để cuộc đời không phải là những chuỗi ngày vòng lặp?".

Nếu chúng ta nhìn vào hành vi của thanh thiếu niên nông thôn thông qua những bài đăng, những bình luận trên mạng xã hội, rất có thể chúng ta sẽ giật mình. Có một cái gì đó đáng thương, có một cái gì đó ngô nghê, có một cái gì đó bản năng, có một cái gì đó yếm thế, có một cái gì đó thua rất xa so với thanh thiếu niên đô thị. Có phải lỗi của họ hay không? Không, ngàn lần khẳng định là không. Cơ bản, họ không được chọn nơi mình sinh ra mà phải chấp nhận nó. Đó có phải là lý do mà những thanh niên có cơ hội thoát ly đã một đi không trở lại bất chấp việc có thể an cư ở đô thị là khó khăn gấp triệu lần.

Trong MV đình đám "Bắc Bling" của Hòa Minzy mới ra mắt gần đây, ắt hẳn chúng ta sẽ nhận thấy niềm vui ánh lên trong mắt của những người dân trong vai quần chúng. Đó là thứ niềm vui hiếm hoi, kiểu "cả đời mới có một lần". Nó không phải là niềm vui của việc được một ca sĩ nổi tiếng mời vào đóng một vai lướt qua. Đó là niềm vui của việc thấy mình có giá trị, được tham gia vào thời cuộc chuyển động rần rần xung quanh. Và đó cũng chính là niềm vui mà nhiều thập niên qua chúng ta trót bỏ quên.

Những chương trình biểu diễn thực cảnh dùng người dân địa phương làm diễn viên đã góp một phần vào việc tạo ra được dạng niềm vui như thế. Song, đời sống chuyển động kia không chỉ là âm nhạc, là một dàn kèn đồng tự phát hay một MV đình đám. Đời sống chuyển động còn rất nhiều yếu tố văn hoá phi vật thể khác mà người dân phải có quyền được tiếp cận. Cái quyền được tiếp cận này không hẳn cứ phải là miễn phí. Nó phải là cơ hội tiếp cận ngang bằng với thành thị. Nhiều vùng nông thôn không hề nghèo về kinh tế khi đã tìm ra được con đường thoát nghèo hiệu quả từ nhiều năm trước. Thậm chí, ở những vùng nông thôn ấy, đời sống vật chất còn là điều mà ngay cả những người dân ở một số nơi trong các đô thị phải ước ao. Nhưng họ vẫn nghèo về điều kiện tiếp cận văn hoá mà không phải chỉ cần một cái nhà văn hoá xã là có thể đáp ứng được.

Một trong những ẩn ức xã hội lớn nhất trên thế giới hiện nay chính là ẩn ức của những người tự xem mình là bị gạt ra ngoài lề. Ở đô thị, những người như thế thường là thất nghiệp, nghèo về vật chất trong khi ở nông thôn, họ có thể là những người không phải lo về đời sống vật chất nhưng cảm nhận thấy mình đang ngoài rìa ở đời sống tinh thần. Hãy thử nhìn vào hành trình của đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam là chúng ta đủ hiểu. Mỗi lần ĐTQG chuẩn bị thi đấu, lại có những ý kiến ước ao kiểu "bao giờ thì ĐTVN về đá ở quê mình nhỉ?". VFF (Liên đoàn Bóng đá Việt Nam) có muốn đưa đội tuyển đi du đấu cả nước hay không? Có chứ. Nhưng cơ bản, có hai yếu tố tiên quyết tác động đến lựa chọn của họ. Thứ nhất là chất lượng sân cỏ (thiết chế văn hóa) và thứ hai là chất lượng phát triển bóng đá của địa phương. Và yếu tố thứ hai quan trọng hơn yếu tố thứ nhất. Không có yếu tố thứ hai, có xây dựng một sân vận động hiện đại bậc nhất đi nữa thì nó vẫn bị bỏ hoang nếu như bóng đá ở địa phương đó là trũng nhất của vùng trũng.

Âm nhạc, điện ảnh, hội họa, sân khấu, văn chương, khoa học kỹ thuật… cũng như vậy thôi. Để tạo ra một thiết chế thì dễ nhưng để thiết chế ấy được sống mới khó. Tạo ra sức sống cho các thiết chế đó chính là tạo ra sinh quyển văn hóa cho địa phương.

Tất nhiên, giống như bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, chuyện nông thôn kém hơn thành thị là chuyện bình thường. Nhưng sút kém thế nào lại là chuyện khác hẳn. Nếu đặt trên thang điểm 10, nếu tỷ lệ chất lượng đời sống văn hóa giữa nông thôn với thành thị thấp hơn mức 6,5-10 thì rõ ràng, khoảng cách ấy là đáng ngại. Song, quan trọng là ai cảm thấy quan ngại? Nếu những người cảm thấy quan ngại chính là những nhà hoạch định chính sách, đó chính là may mắn bởi họ chính là lực lượng quyết định việc thu hẹp khoảng cách kia theo cách nào.

Khoảng 40 năm trước, ném đá đường tàu là một vấn nạn thực sự đáng ngại của ngành đường sắt Việt Nam. Chưa mấy ai lý giải nguyên nhân của nó là gì nhưng tôi luôn có cảm giác, chính vì sự nghèo nàn trong đời sống văn hóa, giải trí của nông thôn đã khiến những đứa trẻ xem trò ném đá lên các đoàn tàu chạy qua ấy là một thứ để giải trí mà vô thức chúng không hiểu rằng hành vi ấy nguy hiểm đến mức nào. Còn nhớ, chính trên chuyến tàu đưa tôi về quê ngoại năm tôi mới 6 tuổi, cha tôi đã bị một viên đá như thế làm chảy máu đầu. Bây giờ, vấn nạn ấy đã không còn phổ biến nữa. Song, hành vi ấy vẫn còn tồn tại dù là hiếm hoi. Nó chứng tỏ rằng vẫn còn những đứa trẻ ở nông thôn cảm thấy đó chỉ là một trò giải trí trong bối cảnh chúng gần như không có nhiều thứ để giải trí trong đời sống quanh quẩn giữa làng và ruộng của mình.

Bao giờ mà một dàn kèn đồng của chị em phụ nữ một thôn quê không trở thành hiện tượng để đài truyền hình quốc gia phải làm một phóng sự, khi đó chúng ta mới có thể tạm coi như là đã đạt được mục tiêu "nông thôn không được phép buồn". Những hoạt động văn hoá như thế phải là thứ nhu cầu bình thường được đáp ứng một cách bình thường, như chuyện mua cân đường hộp sữa vậy. Để đạt được điều đó, rất cần các chương trình dài hơi, thậm chí là chương trình mang tính quốc gia. Từ đó, áp lực mật độ dân cư ở đô thị do làn sóng di cư từ nông thôn mới được giảm tải. Và chúng ta cũng cần nghiêm túc đặt ra câu hỏi "Người dân từ nông thôn đổ lên thành thị có phải chỉ vì ở đó có thể có nhiều tiền hơn, có nhà cao hơn, có đèn màu lấp lánh nhiều hơn hay là vì ở đó họ có cơ hội được tham gia vào đời sống chuyển động rần rần kia dễ dàng hơn?".

Hà Quang Minh

Làng, hay là bất động sản thổ cư?

Điều phân biệt một ngôi làng, và một chuỗi bất động sản thổ cư, nơi người ta mua đi bán lại, đi và về tùy ý là gì? Là linh hồn của nó.

Nông thôn không được buồn -0

Khi Business Insider đăng phóng sự về những gia đình làm giấy dó cuối cùng tại Bắc Ninh, rất nhiều bạn bè quốc tế vào bày tỏ sự nuối tiếc. Họ hỏi cách mua, họ kể rằng quê hương mình cũng từng có kỹ nghệ làm giấy cổ xưa như vậy, họ khen ngợi vẻ đẹp của những tấm giấy mỏng và sự cầu kỳ trong chế tác.

"Giấy dó" đã là một phần lịch sử của văn hóa Việt Nam, thậm chí với nhiều người dân, nó thành một từ vựng kiểu "honda" hay "bimbim", nghĩa là cứ giấy mỹ thuật có màu tối, lộ kết cấu và dùng để vẽ các chất liệu truyền thống thì ta gọi đó là giấy dó. Nhưng giấy dó sắp tuyệt tích. Chỉ còn một vài gia đình đang vận hành quy trình sản xuất cầu kỳ của những tờ giấy mỏng tang, có "độ bền 800 năm" (như quảng bá của báo Business Insider), chuyên dùng để in sắc phong của vua. Họ làm ra chủ yếu để bán cho các dự án về văn hóa, của nhà nước và tư nhân.

Những đứa con không theo nghề, người nghệ nhân tâm sự buồn rầu, vì nghề này quá vất vả. Cách đây hơn 10 năm, khi biết rằng giấy dó sắp vĩnh viễn biến mất cùng những nghệ nhân già cuối cùng, tôi đã vô cùng ngạc nhiên. Chính tôi cũng tưởng rằng mấy tờ giấy mỹ thuật xỉn màu - vốn có thể được làm công nghiệp - mà người ta hay in poster giả cổ, in tranh Đông Hồ, đều là giấy dó tất.

Có những dạng thức văn hóa khó bảo tồn hơn các dạng thức văn hóa khác. Quan họ của Bắc Ninh có thể nhen nhóm hy vọng, khi các nhà sản xuất âm nhạc trẻ tuổi đang quan tâm hơn đến chất liệu truyền thống. Họ tạo ra những bản phối âm nhạc dân gian sôi động, thu hút giới trẻ và trở thành hit - như “Bắc Bling” của Hòa Minzy mới đây. Nhưng từ một MV ăn khách đến việc quan họ thực sự sống, người trẻ Bắc Ninh thực sự quay lại làm những liền anh liền chị mỗi hội làng, là một quãng đường rất xa. Nhưng giấy dó cần một chuỗi giá trị khác để tồn tại.

Nghề làm tượng gỗ Tây Nguyên cũng dường như tuyệt vọng. 5 năm trước, khi xây nhà, tôi đã để dành một vị trí riêng, biết rằng mình sẽ đặt vào đó một tác phẩm điêu khắc trừu tượng cao tầm hơn hai mét, màu gỗ mộc. Không còn gì phù hợp hơn một bức tượng truyền thống của các dân tộc vùng Tây Nguyên cho vị trí đó. Thứ này, tất nhiên, không có hàng bán online. Tôi gọi điện về các tỉnh nhờ anh em phóng viên thường trú tìm kiếm. Cái nhận về là những tin buồn: có những tỉnh không còn một nghệ nhân nào đẽo tượng gỗ - người cuối cùng đã qua đời không lâu trước đó. Tôi vẫn đem về được một bức từ Gia Lai, bởi một nghệ nhân già người Jgrai. Nhưng ông cũng chuẩn bị đi về thế giới của những bức tượng huyền hoặc: con cái đã không còn theo nghề.

Có thể kể ra nhiều hoạt động như thế. Như cái cách mà dân làng Phù Lãng nung gốm bằng củi, trong một cái lò đất được đắp hình vòm thơ mộng. Nó sắp trở thành cái lò gốm nung củi cuối cùng ở miền Bắc, và có thể cũng chẳng tồn tại bao lâu nữa.

Những nghề truyền thống này, không chỉ là một hoạt động kinh tế. Giấy dó, tranh Đông Hồ, làm tượng gỗ, trồng cây cảnh… đều là những thiết chế văn hoá có vai trò kiến tạo và gìn giữ kết cấu nông thôn. Nếu không thể giữ các thiết chế văn hoá riêng, thì ngôi làng thực chất chỉ là một chuỗi bất động sản hỗn hợp, không quan trọng ai đi, ai ở, ai trồng cây, ai làm homestay, ai dựng nhà mái ngói ai xây cao ốc. Nếu không thể giữ các thiết chế văn hoá nông thôn, những ngôi làng có thể tan rã ngay khi vẫn đang còn dân cư. Hôm nay những người già ở lại vì ký ức, nhưng ngày mai, khi các ký ức đó cũng tan biến, nó chỉ còn là một lựa chọn bất động sản của người trẻ. Họ nhìn mảnh đất cha ông và sẽ cân nhắc về giá, chất lượng sống, chi phí sống,… như trước khi quyết định ở bất kỳ khu đô thị nào.

Trong nhiều năm, giải pháp để cải thiện chất lượng sống tại nông thôn Việt Nam đều là giải pháp công trình. Bộ tiêu chí Nông thôn mới bộc lộ rất rõ điều này, với tất cả những điện-đường-trường-trạm cần được xây dựng để trở thành nông thôn "mới". Một tỷ lệ đáng kể các công trình này trở nên vô nghĩa (chúng tôi đã hơn một lần phân tích về những cái chợ bỏ hoang, nhà văn hoá vắng tanh). Trong vài năm qua, cùng với nghị quyết phát triển văn hoá của trung ương, một số vùng đã có chính sách đầu tư vào các giải pháp phi công trình. Nhưng các giải pháp này, với việc thành lập các lớp ca vũ truyền thống hay hội diễn văn nghệ, lễ hội địa phương, đang có nguy cơ lâm vào một mẫu số chung: cái gì trình diễn được thì bảo tồn được.

Có những dạng thức văn hoá không thể trình diễn được, đưa lên sự kiện khai mạc năm du lịch của tỉnh nhà được. Và chúng ta cần những giải pháp mạnh tay hơn, khi "sinh mạng" của chúng đang lâm nguy. Trong lịch sử phát triển kinh tế, của cả Việt Nam và những thị trường tự do nhất, khi cần bảo vệ một giá trị nào đó, người ta cũng có thể áp dụng những biện pháp mạnh tay. Những quota, như cái cách người Hàn Quốc yêu cầu các rạp chiếu phải đảm bảo tỷ lệ phim nội địa trong thế kỷ trước; hay các biện pháp khuyến khích, như doanh nghiệp "có hàm lượng đổi mới sáng tạo" thì nhận được ưu đãi tài chính của nhà nước. Bất chấp những kêu gọi, chưa thấy chương trình vốn nào ưu đãi cho doanh nghiệp nếu họ đảm bảo tỷ lệ văn hoá truyền thống trong sản phẩm. Một bao bì hàng hoá có con loan con phượng, một dự án nghỉ dưỡng với kiến trúc và điêu khắc truyền thống, một mặt hàng được làm bằng vật liệu truyền thống, chúng ta biết rằng mình cần khuyến khích chúng. Nhưng vẫn đang khuyến khích… bằng mồm.

Cần một nhận thức rằng việc bảo vệ một số lĩnh vực văn hoá, đặc biệt là tại nông thôn, không phải là một hoạt động khuyến khích kinh tế thông thường. Giữ giấy dó hay giữ tượng gỗ Tây Nguyên không phải là di chuyển giữa lằn ranh của nghèo và giàu; nó là lằn ranh của sinh tồn và tàn lụi. Trong những hoạt động ấy, là linh hồn của dòng sông, ngọn núi và cánh đồng nước Việt.

Đức Hoàng

.
.