Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2024)

Những chứng nhân lịch sử “Sở chỉ huy Nà Táu”

Thứ Năm, 25/04/2024, 10:22

Mười năm trước, tháng 3/2014, có dịp ra Hà Nội, tôi đến thăm Đại tá Lê Trọng Nghĩa - nhân chứng ở Sở chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Năm ấy đã 92 tuổi nhưng trước chồng tư liệu lịch sử, ông vẫn tìm ra bức ảnh “Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các sĩ quan cao cấp đang thông qua phương án tác chiến tại Sở chỉ huy mặt trận ở bản Nà Táu”. Ông sôi nổi kể lại sự kiện lịch sử mà ông là một nhân chứng.

“Từ năm 1950, tôi được theo Võ Đại tướng đi các chiến dịch, phụ trách công tác Quân báo. Từ ngày 17/12/1953 đến 17/1/1954, Sở chỉ huy chiến dịch Trần Đình (mật danh của Chiến dịch Điện Biên Phủ) đóng ở hang Thẩm Púa, xã Chiềng Sinh, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Tại đây, Võ Đại tướng giao nhiệm vụ cho Đại đoàn 308 đánh vào phía tây Tập đoàn cứ điểm, chọc thẳng tới sở chỉ huy Đờ Cát; các Đại đoàn 312, 316 đột kích từ hướng đông. Dự kiến “đánh nhanh, thắng nhanh”: nổ súng giờ G (17 giờ) ngày N (25/1/1954) và diễn ra trong 2 ngày 3 đêm.

Những chứng nhân lịch sử “Sở chỉ huy Nà Táu” -0
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các cộng sự tại Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ đóng tại bản Nà Táu.

Sau đó để bám sát mặt trận hơn, Sở chỉ huy chuyển đến hang Huổi He, ở cây số 62, bản Nà Táu. Vừa ổn định, được tin quân báo: đêm 19 và 20/1/1954, quân Pháp đã phát lệnh mở Chiến dịch Át-lăng (Atlande) đánh vào Tuy Hòa (vùng tự do Khu V Trung Bộ). Sau khi hội ý, Đại tướng yêu cầu toàn bộ Sở chỉ huy phải trực tiếp ra mặt trận thị sát. Trưởng ban Tác chiến Đỗ Đức Kiên, Cục phó Cục 2 Cao Pha cùng Tổng tham mưu phó Hoàng Văn Thái lập tức lên đường. Ở Sở chỉ huy còn lại anh Trần Văn Quang, anh Nguyễn Văn Hiếu và tôi...”.

Cầm trên tay tấm ảnh “Hội nghị quân sự ở bản Nà Táu”, chỉ vào người mặc áo đại cán màu đen, Đại tá Lê Trọng Nghĩa nói: “Theo phương án đánh nhanh, thắng nhanh thì chỉ còn vài ngày nữa là tới “ngày N”. Các sĩ quan có mặt quanh bàn lớn đặt giữa hầm, trên trải tấm bản đồ chiến dịch. Anh Văn đang chỉ tay vào các cứ điểm...”.

Đứng chếch bên tay phải Đại tướng là đồng chí Phạm Kiệt. Ông sinh năm 1912 tại Quảng Ngãi, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa ở quê hương đầu năm 1945 và là chỉ huy trưởng của Đội du kích Ba Tơ. Năm 1946 là Đại đoàn trưởng Đại đoàn 31 của Khu V, đến năm 1953 là Cục phó Cục Bảo vệ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong cuốn “Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử”, Đại tướng đánh giá rất cao vai trò Cục Bảo vệ và đồng chí Phạm Kiệt - khi đi thị sát chiến trường đã phát hiện việc bố trí pháo binh trên trận địa dã chiến quá trống trải, sẽ tổn thất rất lớn. Ông kiên quyết bảo vệ ý kiến “phải cho dừng ngày N”! Năm 1959, ông được phong hàm Thiếu tướng và năm 1961 là Tư lệnh kiêm Chính ủy Công an Vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng). Năm 1975, Trung tướng Phạm Kiệt mất tại Hà Nội, thọ 63 tuổi.

Sau lưng đồng chí Phạm Kiệt là đồng chí Trần Văn Quang, sinh năm 1917. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng chí Trần Văn Quang là Cục trưởng Cục Tác chiến, cơ quan giúp việc đắc lực cho Đại tướng khi hạ “quyết tâm chiến đấu”, đặc biệt trong việc chuyển từ phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc,  tiến chắc”. Hòa bình lập lại, năm 1959, ông là Phó tổng Tham mưu trưởng; sau 1975 là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và được phong hàm Thượng tướng năm 1984. Năm 1992 được bầu làm Chủ tịch đầu tiên của Hội Cựu chiến binh Việt Nam; ông mất năm 2013, hưởng thọ 96 tuổi.

Sát bên tay trái Võ Đại tướng là đồng chí Lê Liêm, Chủ nhiệm Chính trị mặt trận. Ông sinh năm 1922, đồng chí là Xứ ủy viên Bắc Kỳ, lãnh đạo khởi nghĩa tháng 8/1945 ở Hưng Yên. Tháng 8/1948 nhận nhiệm vụ Cục trưởng Cục Dân quân và tháng 10/1949 thay Thiếu tướng Văn Tiến Dũng làm Cục trưởng Cục Chính trị. Trong các chiến dịch Biên giới, Tây Bắc… ông theo sát Võ Đại tướng với tư cách Chủ nhiệm chính trị mặt trận. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, tham gia Bộ chỉ huy mặt trận (gồm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy: Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Tham mưu trưởng: Thiếu tướng Hoàng Văn Thái; Chủ nhiệm Cung cấp: Đặng Kim Giang; Chủ nhiệm Chính trị: Lê Liêm).

Đến năm 1958 ông được phân công làm Thứ trưởng kiêm Bí thư Đảng đoàn Bộ Văn hóa nhưng cán bộ, chiến sĩ trong quân đội vẫn gọi ông với cái tên trìu mến “Tướng Lê Liêm”. Tại Đại hội Đảng 3 (1960), ông được bầu là ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng… Năm 1985, ông mất tại Hà Nội, thọ 63 tuổi.

Người ngồi sát bìa phải tấm ảnh là Thiếu tướng Lê Thiết Hùng. Ông sinh năm 1908 và năm 1926 là một trong những thanh niên được Cụ Hồ gửi sang Trung Quốc học Trường quân sự Hoàng Phố (cùng Nguyễn Sơn, Phùng Chí Kiên…). Thời gian (1940-1945), ông hoạt động ở chiến khu Cao - Bắc - Lạng, rồi lãnh đạo khởi nghĩa ở Lạng Sơn. Đầu năm 1946, ông được tấn phong Thiếu tướng “tiếp phòng quân” - vị tướng lĩnh đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Những năm (1950 - 1954) là hiệu trưởng Trường Lục quân Việt Nam tại Trung Quốc. Đầu năm 1954, trên cương vị Tổng Thanh tra Quân đội, ông có mặt thanh tra chiến dịch Điện Biên Phủ. Hòa bình lập lại, ông chuyển sang công tác ngoại giao - đại sứ tại Triều Tiên và Phó trưởng ban Đối ngoại Trung ương. Tướng Lê Thiết Hùng mất năm 1986 tại Hà Nội, thọ 78 tuổi.

Người ngồi đầu bàn phía tay phải Đại tướng là đồng chí Hoàng Xuân Tùy. Sinh năm 1922 tại Thừa Thiên - Huế, năm 1941, Hoàng Xuân Tùy ra Hà Nội học Cao đẳng Công chính, được giác ngộ cách mạng và tham gia khởi nghĩa ở thủ đô. Tháng 10/1945, vào quân đội được cử đi học Trường Quân chính Việt Nam rồi được giữ lại làm cán bộ khung và được Bí thư chi bộ Trần Tử Bình giới thiệu kết nạp Đảng. Năm 1950 là Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn 308, tới cuối năm 1951 được điều về Tổng cục Chính trị làm ở Báo Quân đội nhân dân. Tháng 11/1953, ông được điều lên làm Trưởng ban Tuyên huấn kiêm phụ trách Báo Quân đội nhân dân tại mặt trận. Trong Hội nghị Nà Táu, ông có mặt để nắm thông tin, kịp thời phản ánh, tuyên truyền động viên bộ đội bước vào chiến dịch.

Có một câu chuyện vui, đúng ngày 29 Tết Quý Tỵ (2/2/1954) “đám cưới nhà binh” của nhà báo Hoàng Xuân Tùy và diễn viên văn công Song Ninh được tổ chức ngay tại mặt trận. Anh em trong cơ quan vội chặt tranh tre, nứa lá dựng cho căn chòi hạnh phúc. Chủ nhiệm Chính trị mặt trận Lê Liêm đứng ra làm chủ hôn. Võ Đại tướng cũng sang dự và mừng hạnh phúc cho đôi trẻ. Hòa bình lập lại, năm 1956, ông được điều ra làm hiệu phó, rồi Hiệu trưởng Đại học Bách khoa Hà Nội. Thời gian (1965 – 1989) là Thứ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, đến năm 1990 thì nghỉ hưu tại TP Hồ Chí Minh.

Cuối cùng, chỉ vào người cạnh ông Tùy,  Đại tá Lê Trọng Nghĩa khẽ khàng: “Đây là mình, năm ấy vừa tròn 33, giờ đã là ông cụ 92 nên tiếc là không còn nhớ người ngồi giữa anh Văn và anh Tùy là ai …”.

Là học sinh Bonnal, Đoàn Xuân Tín (tên thật của Đại tá Lê Trọng Nghĩa) được giác ngộ tinh thần yêu nước rồi tham gia hoạt động trong phong trào học sinh Hải Phòng cùng với Văn Cao, Nguyễn Đình Thi… Năm 1942 lên Hà Nội hoạt động Thanh niên Cứu quốc, bị bắt khi rải truyền đơn và bị kết án rồi tống giam vào nhà pha Hỏa Lò. Sau ngày 9/3/1945, lợi dụng Nhật đảo chính Pháp, ông được anh em tù chính trị giao nhiệm vụ hộ tống “tử tù” Trần Đăng Ninh trèo tường rào vượt ngục. Sau đó, anh đã đổi cái tên mới Lê Trọng Nghĩa và được cử tham gia vào Dân chủ Đảng. Ông được Việt Minh Hà Nội cử vào điều đình với cụ Phan Kế Toại - Khâm sai đại thần rồi sau đó gặp Thủ tướng Trần Trọng Kim.

Ngày 15/8/1945, Lê Trọng Nghĩa có tên trong danh sách Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội. Trưa ngày 19/8/1945, khi quần chúng cách mạng do đồng chí Nguyễn Quyết (sau này là Đại tướng, Phó Chủ tịch nước) chỉ huy chiếm được Trại Bảo an binh (nay thuộc khu vực Nhà hát Hồ Gươm, trên phố Hàng Bài, Hà Nội). Tuy nhiên, quân Nhật đã cho xe tăng tới bao vây Trại. Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội đã cử Lê Trọng Nghĩa đến phối hợp cùng đồng chí Nguyễn Quyết đàm phán, dàn xếp để quân Nhật rút lui, không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Tiếp đó, tối 19/8, dưới sự chỉ đạo của 2 ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ - Nguyễn Khang và Trần Tử Bình, Lê Trọng Nghĩa cùng cố vấn Trần Đình Long trực tiếp vào Tổng hành dinh quân đội Nhật (nay là 33 Phạm Ngũ Lão) điều đình với Tướng Tsuchihashi Yuitsu - Tổng chỉ huy quân đội Nhật ở Đông Dương. Họ chấp nhận không đụng độ vũ trang, tránh được tổn thất lớn cho Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội. Ngày 20/8/1945, Lê Trọng Nghĩa được chỉ định là Ủy viên Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời Bắc Bộ. Tháng 3/1946, ông được bầu là đại biểu Quốc hội khóa I.

Từng đảm trách các nhiệm vụ: Chánh văn phòng Bộ Quốc phòng (1946), Chánh văn phòng Tổng Quân ủy (1947), Cục trưởng Cục Quân báo (1950) rồi phụ trách Quân báo trong Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ; năm 1958, ông được phong hàm Đại tá, giữ chức Cục trưởng Quân báo (1960 -1962) và sau đó làm thư ký cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp…

Theo quy luật của tạo hóa, nhân chứng lịch sử - Đại tá Lê Trọng Nghĩa - cũng vĩnh biệt chúng ta sau ngày cả nước kỷ niệm 60 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2014).

TP Hồ Chí Minh, tháng 4/2024

Trần Kiến Quốc
.
.