Mãi xứng danh Bộ đội Cụ Hồ
Quân đội nhân dân Việt Nam - Bộ đội Cụ Hồ kế tục truyền thống "đại nghĩa thắng hung tàn", "chí nhân thay cường bạo" được tạo dựng, hun đúc suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Theo sử sách, Hưng Đạo Đại Vương làm quan đến đời Vua Anh Tông thì xin về trí sĩ ở Vạn Kiếp. Khi ngài sắp mất, Vua Anh Tông có ngự giá đến thăm, thấy ngài bệnh nặng, nhà vua mới hỏi rằng: "Thượng phụ một mai khuất núi, phỏng có quân giặc lại sang thì làm thế nào?". Hưng Đạo Đại Vương tâu rằng: "Đánh giặc ví như đánh cờ, phải tùy cơ mà ứng biến, dùng binh phải đồng lòng như cha con một nhà thì mới có thể đánh được. Cách ấy cốt phải tự lúc bình thời thì khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả".
Cốt cách ấy cũng là mạch nguồn cội rễ quyết định mọi chiến thắng trong tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta. Chính quân đội nhà Trần là quân đội đầu tiên của nhà nước phong kiến Việt Nam có được một hệ thống lý luận quân sự thống nhất trong toàn quân với các bộ binh thư có giá trị như "Binh thư yếu lược", "Vạn Kiếp tông bí truyền thư" do Trần Quốc Tuấn, người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài soạn thảo để toàn quân học tập.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, bản chất Quân đội Việt Nam mang tính Đảng, tính nhân dân ngay từ khi ra đời. Trong “Chánh cương vắn tắt” của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng năm 1930 đã chỉ rõ: Đảng phải "Tổ chức ra quân đội công nông". Nghị quyết về "Đội tự vệ" thông qua tại Đại hội I của Đảng (tháng 3/1935) xác định: Công nông cách mạng tự vệ đội đặt dưới quyền chỉ huy thống nhất của Trung ương Quân ủy của Đảng Cộng sản; luôn luôn phải giữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng Cộng sản trong tự vệ thường trực. Trong lãnh đạo xây dựng, phát triển lực lượng, Đảng xác định phải làm cho các đội du kích đi đúng "con đường chính trị"; lấy đấu tranh chính trị làm cơ sở để đấu tranh vũ trang giành chính quyền.
Tháng 12/1944, tại Pác Bó (Cao Bằng), Bác Hồ chỉ định đồng chí Võ Nguyên Giáp đảm nhiệm công tác thành lập lực lượng vũ trang tập trung, lấy tên "Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân". Người khẳng định: "Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Bắc vào Nam, khắp đất nước Việt Nam".
Năm 1949, trong thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, Người chỉ rõ: "Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước yêu dân, cho nên hy sinh gian khổ. Quân đội ta luôn giữ gìn và phát huy truyền thống anh dũng của quân đội giải phóng Việt Nam và đạo đức cách mạng gồm trong 10 điều kỷ luật". Trong thư gửi toàn thể cán bộ, chiến sĩ ngày 22/12/1959, Người căn dặn: "Phải trau dồi đạo đức cách mạng, đoàn kết, khiêm tốn, hết lòng vì Đảng, vì nhân dân. Phải nâng cao chí khí chiến đấu, luôn luôn sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình".
Nhìn lại chặng đường lịch sử 79 năm Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, chúng ta thấy sự vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ ở việc quyết định thành lập một tổ chức quân sự kiểu mới, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn cho thấy những tư tưởng cơ bản, chỉ đạo xuyên suốt trong việc tổ chức, xây dựng một quân đội cách mạng để giành và giữ chính quyền. Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được coi như Cương lĩnh quân sự của Đảng (như đánh giá của đồng chí Trường Chinh), trong đó vạch rõ nguyên tắc, phương châm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng là dựa vào phong trào vũ trang toàn dân, bản chất cách mạng chính trị trọng hơn quân sự, chức năng của quân đội kiểu mới (ngoài chức năng chiến đấu, còn có chức năng vận động, tuyên truyền quần chúng).
Đồng thời, chỉ ra nghệ thuật tác chiến của đội quân này (vận dụng lối đánh du kích, nhanh chóng, tích cực, bí mật, bất ngờ). Với quan điểm, tư tưởng xuyên suốt đó, 79 năm qua, từ đội quân thuở ban đầu chỉ có 34 chiến sĩ, Quân đội ta đã không ngừng lớn mạnh, có đủ các lực lượng hải - lục - không quân ngày càng vững mạnh, chính quy, hiện đại, thực sự là lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Là một quốc gia chịu nhiều đau thương, mất mát từ những cuộc chiến tranh tàn bạo của các thế lực ngoại xâm, chúng ta khao khát, chúng ta mong muốn hòa bình để xây dựng đất nước, cải thiện đời sống nhân dân. Nhưng, hòa bình không thể chỉ khát khao, mong muốn mà có. Chúng ta phải mạnh lên về mọi mặt - cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, với khối đại đoàn kết toàn dân. Đảm bảo được các yếu tố đó, chúng ta mới giữ vững được hòa bình, mới bảo vệ được vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Tính chính trị của lực lượng vũ trang nói chung, của quân đội nói riêng là vấn đề cốt lõi, quy định sự ra đời, chiến đấu và trưởng thành của QĐND Việt Nam. Lâu nay, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm cách tấn công vào điểm này để tuyên truyền chống phá, đưa ra các luận điệu đòi phi chính trị hóa lực lượng Quân đội, tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng với khẩu hiệu "đòi trung lập". Mục đích làm cho Quân đội xa rời sự lãnh đạo của Đảng, phân rã về tư tưởng, lỏng lẻo về tổ chức. Từ đó, làm cho Quân đội ta mất phương hướng chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành các bước tiếp theo kiểu "cách mạng hoa hồng", "cách mạng đường phố", "cách mạng cam", "cách mạng nhung"... mà chúng đã áp dụng ở một số nước trên thế giới. Gần đây, trên các trang mạng thù địch, chúng đưa ra mô hình quân đội một số nước và viện dẫn lý lẽ để ngụy biện rằng quân đội nhiều nước "không liên quan đến chính trị".
Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XIII) vừa qua đã đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc, có hệ thống về tình hình và kết quả 10 năm thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới mà Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI) đề ra. Thành tựu đạt được là toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó, lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại có những kết quả tiêu biểu, rõ nét. Đảng ta đã ban hành và triển khai đồng bộ nhiều chiến lược quan trọng như: Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng... Từ đó, đã xây dựng và tổ chức thực hiện các đề án phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trên phạm vi cả nước, nhất là trên các địa bàn chiến lược. Đặc biệt, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW và Nghị quyết số 12-NQ/TW lãnh đạo xây dựng QĐND và CAND vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân.
Tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân gắn với xây dựng thế trận lòng dân vững chắc. Ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ vào lĩnh vực quốc phòng, góp phần sản xuất, cải tiến vũ khí, trang bị, hiện đại hóa chỉ huy, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Phát triển nền công nghiệp quốc phòng, nhất là bước đột phá, làm chủ công nghệ lõi, nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sản xuất được nhiều loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại và nhiều sản phẩm lưỡng dụng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của lực lượng vũ trang và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tập trung xây dựng QĐND, CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Triển khai đồng bộ nhiều giải pháp xây dựng QĐND, CAND theo hướng "tinh, gọn, mạnh" với cơ cấu tổ chức đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng; giảm đầu mối trung gian và đơn vị phục vụ, bảo đảm; ưu tiên quân số cho các đơn vị sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện.
Quán triệt phương châm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy. Chủ động nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược; nắm vững tình hình thế giới, khu vực, trong nước, âm mưu, thủ đoạn, hoạt động của các thế lực thù địch, kịp thời có chủ trương, đối sách từ sớm, từ xa, xử lý thắng lợi các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là những vấn đề phức tạp, nhạy cảm liên quan đến độc lập, chủ quyền, lãnh thổ, biển đảo, lợi ích quốc gia - dân tộc.