Khẩu hiệu đi liền với hiệu quả

Thứ Năm, 11/12/2025, 14:56

LTS: Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Làm việc, hành động nhiều hơn; ít khẩu hiệu hơn, nhưng kết quả nhiều hơn; ít thủ tục hơn, nhiều nụ cười của nhân dân hơn”. Từ phát biểu này, hãy thử nhìn lại về khẩu hiệu và sự tồn tại lâu nay của nó trong xã hội Việt Nam.

Chỉ vì cấu hình máy tính yếu

Tháng trước, trong một cuộc họp của thành phố Hà Nội, Sở Tài chính báo cáo cho rằng một trong những nguyên nhân khiến cho quá trình chuyển đổi số trì trệ là… máy tính cấu hình yếu.

Khẩu hiệu đi liền với hiệu quả -0

1. Chuyển đổi số là một trong những chiến dịch được bao phủ bởi nhiều khẩu hiệu bậc nhất vài năm qua, như: “Số hóa để phát triển bền vững”; “Chuyển đổi số toàn dân, toàn diện, toàn trình”; “Đổi mới tư duy, dẫn lối thành công chuyển đổi số”…

Nhưng kết quả khá phũ phàng. Vào đầu tháng, Chính phủ công bố một con số đáng chú ý về dịch vụ công trực tuyến: tỉ lệ hồ sơ dịch vụ trực tuyến toàn trình chỉ đạt 39,98%, còn rất xa so với mục tiêu 80% của năm 2025.

Tất nhiên, chuyện máy yếu có thể được xem như một nguyên nhân, thậm chí nếu vấn đề chỉ có thế thì còn là chuyện đáng mừng. Giá máy tính với cấu hình ổn giờ rất rẻ, và thay cấu hình của một cái máy là tư duy logic dạng rất đơn giản, giống như việc chơi game nếu thấy máy xử lý hình ảnh chậm thì thay vào một cái card đồ hoạ đắt tiền hơn là mượt ngay. Nhưng vấn đề chắc chắn không chỉ đơn giản như vậy. Bạn có lẽ cũng từng tự hỏi khoảng cách giữa các khẩu hiệu và thực tế là gì, và nghĩ về nguyên nhân kiểu đơn sơ kia có thể là một gợi ý: nếu lý do cản trở chuyển đổi số chỉ đơn giản thế, thì 99% cách mục tiêu mà con người đặt ra đã thành công.

Thực tế là các khẩu hiệu hay slogan chính là các công cụ quan trọng của quản trị học hiện đại, với vai trò nhấn mạnh, đơn giản hóa các mục tiêu phức tạp hoặc gây tranh cãi, đồng thời đem lại cảm xúc cho những người tiếp nhận.

2. Nhưng thất bại của nó sẽ đến nếu chúng ta rơi vào những kết luận đơn sơ kiểu vậy. Đó là một nghiên cứu được rút ra từ chiến dịch “Người Nhật giỏi tiếng Anh” tại Nhật vào năm 2003, với nhiều khẩu hiệu và mục tiêu đầy quyết tâm.

Bám vào slogan lớn đó, Bộ Giáo dục Nhật Bản (MEXT) hứa hẹn cải thiện kỹ năng giao tiếp tiếng Anh qua các biện pháp như đội ngũ giảng dạy tương tác (team-teaching), làm việc nhóm, kết hợp tài liệu nghe nhìn, đồng thời thành lập 100 trường Trung học tiếng Anh siêu đẳng (SELHi). Cuối cùng thì họ thành lập đủ 100 trường tiếng Anh siêu đẳng thật, nhưng khảo sát thật sự cũng cho thấy một kết quả phũ phàng: chỉ 20-30% trong số các học sinh có thể giao tiếp quốc tế.

Nghiên cứu của một trường đại học ở California (Mỹ) đặt ra một khái niệm để chỉ tình trạng này: can thiệp không lường được hậu quả (unintended failure). Nó ám chỉ tình huống mà các can thiệp được thiết kế để đạt mục tiêu quá tích cực, nhưng lại dẫn đến hậu quả tiêu cực không lường trước, thậm chí phản tác dụng. Khi đặt mục tiêu biến các học sinh Nhật Bản thành các nhân lực giao tiếp tiếng Anh siêu đẳng bằng các phương pháp giáo dục phối hợp và cởi mở, các nhà giáo dục Nhật đã quên mất ngữ cảnh: học sinh Nhật thường thụ động, quá tôn trọng quyền uy giáo viên và tránh thể hiện cá nhân (bị xem như khoe khoang). Các biện pháp dạy tiếng Anh kiểu tương tác phương Tây không hiệu quả, thậm chí còn làm tình hình tồi tệ thêm.

Kém tiếng Anh thì áp dụng nguyên xi một phương pháp đã thành công bất chấp ngữ cảnh giống như chuyện chuyển đổi số chậm thì phải thay máy tính cấu hình cao hơn. Tư duy giải thích vấn đề kiểu này có thể tiêu diệt mọi tiến triển của quá trình biến khẩu hiệu thành hiện thực.

3. Các khẩu hiệu, với tính chất ngắn gọn và lặp lại, chính là “kẻ thù” của tư duy phê phán vì chúng khai thác chính cơ chế ức chế nhận thức để giảm sự tham gia nhận thức. Nhưng khi ức chế bị lạm dụng hoặc kích hoạt sai cách, nó dẫn đến “hiệu ứng mù” (blindering effect): não ngừng suy nghĩ sâu, chấp nhận thông tin bề mặt mà không đánh giá phê phán thêm để cải thiện tình hình.

Nôm na là khẩu hiệu có thể tạo ra sự chấp nhận đơn giản, giống như cách tư duy vấn đề kiểu chuyển đổi số kém là do máy tính còn yếu: chúng ta sẽ chấp nhận các con số bề mặt như phủ sóng Internet đạt gần 80% dân số năm 2023; mạng 5G phủ 26% khu dân cư năm 2025; hay tốc độ Internet di động xếp thứ 20 thế giới; trong khi con số thực sự đáng quan tâm là tỉ lệ giải quyết hồ sơ dịch vụ công trực tuyến toàn trình chỉ dưới 40%.

Nhìn vào con số cốt lõi đó và chấp nhận nó như một thất bại sẽ dẫn đến các suy nghĩ sâu hơn: liệu quy trình chuyển đổi số đã ổn chưa? Nhân lực đã được đào tạo kỹ lưỡng và có ý thức dữ liệu hóa các quy trình chưa? Và từ đó, chúng ta sẽ thoát được “vùng khẩu hiệu”, chỉ toàn hô hào nhưng không tiến bộ thực chất.

Còn chấp nhận luôn rằng nó là một chiến thắng tất yếu như khẩu hiệu sẽ dẫn đến các biện luận đơn sơ kiểu đổ cho cái máy tính yếu. Vậy thì thay cái máy tính là xong, đỡ phải nghĩ nhiều nữa. Chưa đạt thì lại hô hào… mua thêm máy tính.

Phạm An

Những câu giả ý nghĩa

Một nhà hiền triết bị bắt khi vương quốc của ông bị chiếm đóng. Nhà vua đối phương nói: “Ta nghe nói ngươi là người thông minh nhất vương quốc này. Ta cho phép ngươi nói một câu. Nếu nói đúng, ngươi sẽ bị treo cổ. Nếu nói sai, ngươi sẽ bị chém”.

Khẩu hiệu đi liền với hiệu quả -0

Nhà hiền triết bình tĩnh trả lời mà không cần suy nghĩ: “Tôi sẽ bị chém”.

Nhà vua cười lớn: “Được, nếu ngươi muốn vậy, ta sẽ cho ngươi toại nguyện. Bay đâu, lôi tên này ra chém”.

Vị triết gia vẫn bình tĩnh: “Nếu ngài chém tôi, nghĩa là tôi đã nói đúng. Như vậy, tôi sẽ phải bị treo cổ chứ?”.

Nhà vua giật mình nhận ra nghịch lý. Nếu bây giờ chém người này, tức là ông ta nói đúng, vậy thì ông sẽ phải bị treo cổ. Nhưng nếu treo cổ ông ta, tức là ông ta nói sai, nghĩa là theo nguyên tắc đã nói, ông phải “được” chém kia. Vị bạo chúa rơi vào một vòng lặp logic vô tận, vô cùng bối rối. Cuối cùng, ông ta đành phải trả tự do cho nhà hiền triết.

Các phiên bản của câu chuyện thú vị đó được kể trong các cuốn sách toán thiếu nhi của Liên Xô, phần nói cho các em nghe về tập hợp. Lý do của việc nhà hiền triết đã thoát chết rất đơn giản: ông đã nói ra một câu không thể phân định đúng-sai, không thể xếp vào tập hợp nào. Thoạt nhìn, nó có vẻ chứa đựng một thông tin gì đó (và đây là hiểu nhầm đã khiến tay bạo chúa bối rối). Nhưng việc đi sâu vào phân tích cái thông tin đó chỉ khiến người ta rơi vào hố sâu của sự vô nghĩa.

Một bài học về toán, nhưng nếu ngẫm kỹ, lại hàm chứa một ngụ ngôn về đời sống. Trong những hoàn cảnh mà người ta buộc phải nói, nhưng nói kiểu gì cũng sai, họ sẽ luôn tìm cách nói những câu “giả ý nghĩa”.

Những câu giả ý nghĩa xuất hiện ở nhiều nơi. Rất dễ tìm thấy một ví dụ tương đồng với câu nói của nhà hiền triết trên phố. “Hưởng ứng tháng hành động vì….” là một câu không có nghĩa, dù nó đã ở đó, trên những thân cây, cột điện năm này qua năm kia. “Hưởng ứng” là một động từ chủ quan, không có kết quả dù là kết quả định tính. Nó không có mục tiêu, không mô tả phương thức, không khuyến nghị hành động. Và giống với câu chuyện ở đầu bài viết, nó chỉ “có vẻ” mang một thông tin nào đó thôi.

Các khẩu hiệu ở nước ta từng rất cụ thể. Chúng nói về các kết quả. “Vượt mọi khó khăn gian nan để tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ” là một tuyên bố hướng kết quả, thậm chí định lượng (số quân địch = 0). Chúng thường xuyên là các cặp nhân - quả: “Đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp đưa nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”. Và tất nhiên, câu khẩu hiệu kinh điển “Mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con” đưa ra một chỉ tiêu chính xác. Một và hai.

Chúng ta cũng có thể tìm thấy các câu “giả nghĩa” trong các báo cáo, các bài phát biểu. Hãy xem một báo cáo kinh tế xã hội của một cấp chính quyền địa phương: “Công tác chỉ đạo tiếp tục được triển khai đồng bộ, chặt chẽ phù hợp với điều kiện sản xuất của từng vùng; các tiến bộ kỹ thuật tiếp tục được triển khai được nông dân đồng thuận và áp dụng vào sản xuất đạt kết quả tốt”. Chưa kể việc sử dụng hàng loạt tính từ mơ hồ, mệnh đề “các tiến bộ kỹ thuật” này khá vô duyên ở thế kỷ 21. Nó còn là một câu bị động, không có chủ thể.

Thực ra, chúng ta đều hiểu rằng việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp ngày nay được thực hiện phần lớn bởi khu vực tư nhân, nông hộ, chính quyền cấp xã huyện không có nguồn lực và điều kiện cho các chương trình này. Đối tượng viết ra câu này vừa tỏ ra mình là một phần của bức tranh nhưng cũng không khẳng định mình là một phần của bức tranh. Việc viết một câu không có chủ thể như vậy rất là… nhà hiền triết.

Lý do của việc này là gì? Cũng giống như ví dụ ở đầu bài: họ thường xuyên ở vị thế buộc phải nói, dù không có gì để nói, hoặc nếu đi sâu vào chi tiết có thể gây nguy hiểm cho tương lai. Đề ra mục tiêu biết đâu không thể thực hiện? Mô tả hành động nhỡ không có phương án triển khai?

“Họp ít, làm nhiều, ít khẩu hiệu và thủ tục, nhiều nụ cười của nhân dân”. Lời kêu gọi đó của Tổng Bí thư Tô Lâm mang cú pháp cụ thể, thực chất của những câu cổ động ngày xưa. Nhưng đó là một lời kêu gọi khó...

Đức Hoàng

Ít nhưng mà tinh

Khẩu hiệu đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử loài người, từ “SPQR” (Senâtus Populusque Rômânus – Nghị viện và công dân La Mã) ở thời La Mã cổ đại cho tới “Think diffirent” của Apple ở thời hiện đại. Khẩu hiệu luôn được xem là vũ khí hữu hiệu nhất để thu hút sự chú ý, kích thích hành động của con người trong cộng đồng.

Khẩu hiệu đi liền với hiệu quả -0

Có những khẩu hiệu đã giúp tạo nên sự thành công của những cuộc cách mạng thay đổi thể chế, thay đổi vận mệnh của cả một quốc gia, dân tộc và cũng có cả những khẩu hiệu mang lại hàng tỷ USD cho một doanh nghiệp trong một chiến dịch thương mại toàn cầu. Những người Việt Nam cũng đã quá quen với các khẩu hiệu khi chúng xuất hiện hàng ngày, ở mọi ngõ ngách, trên mọi phương thức tuyên truyền. Song, hiệu quả mang lại của từng khẩu hiệu lại rất khác nhau và chưa bao giờ chúng được đem ra đánh giá một cách chi tiết bất chấp việc để đưa khẩu hiệu ấy vào tuyên truyền, chi phí từ ngân sách là không hề nhỏ.

Đặc điểm của khẩu hiệu cũng thay đổi rất nhiều theo dòng lịch sử của loài người. Thế kỷ 20 có thể được xem là thời gian bùng nổ của khẩu hiệu, khi chúng xuất hiện hữu hiệu ở rất nhiều phong trào chính trị, xã hội tại nhiều quốc gia. Và theo sự phát triển của thời đại, sự nâng tầm của dân trí, khẩu hiệu cũng trở nên ngắn gọn hơn, súc tích hơn. Một ví dụ đơn giản, một trong những khẩu hiệu được xem là có sức nặng nhất, lan tỏa nhanh nhất trong khoảng 15 năm vừa rồi chính là “Black Lives Matter” (Mạng sống của người da đen rất quan trọng). Chỉ 3 từ nhưng nó gồm thâu mọi ý nghĩa, quan điểm về vấn đề chủng tộc và đánh thức nhận thức của cộng đồng một cách rất dễ dàng.

Một trong những yếu tố khiến khẩu hiệu có sự thay đổi như vậy chính là vai trò của mạng xã hội, kênh tuyên truyền hữu dụng nhất hiện nay. Với việc gắn thẻ (hashtag), mạng xã hội đòi hỏi người phát đi thông điệp cần có những “thẻ chữ” ngắn gọn (phù hợp với thói quen đọc nhanh), có sức nặng hàm súc, có độ vang tưởng tượng (như thể có giọng đọc vang lên trong đầu người xem) và dễ nhớ. Chính vì thế, số lượng chữ luôn được cân nhắc rất kỹ trước khi một khẩu hiệu được lựa chọn. Thậm chí, ngắn tới mức chỉ hai từ “Me too” thôi cũng đã đủ tạo nên một phong trào toàn cầu.

Trong bối cảnh như thế, khẩu hiệu ở Việt Nam đang được thực hiện như thế nào? Hãy đọc những biểu ngữ được treo dọc các con phố, chúng ta sẽ nhận ra rằng công tác tuyên truyền hiện nay vẫn được thực thi theo cách của những năm thập niên 60, 70 của thế kỷ trước.

Nhưng đáng buồn là chất lượng thông tin từ các khẩu hiệu hôm nay lại không tốt hơn khẩu hiệu của những thập niên cũ. Nếu chúng ta đã từng có một khẩu hiệu đến nay vẫn nằm lòng bao người, qua bao thế hệ, là “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, ngày nay, rất khó có thể kiếm được một khẩu hiệu ngắn gọn nhưng có sức nặng khơi gợi lòng người như thế. Ví dụ, một trong những khẩu hiệu về an toàn sức khỏe và môi trường đã từng được sử dụng là “An toàn là trên hết, môi trường luôn đi đôi”.

Nó có hay hơn một khẩu hiệu bao nhiêu thế hệ từng thuộc lòng là “An toàn là bạn, tai nạn là thù” hay không? Về ngữ điệu, nhịp ngôn ngữ, vần điệu, nó thua xa. Nhưng buồn hơn cả là nó tối nghĩa. “Môi trường luôn đi đôi” nghĩa là gì? Người đọc có thể rút ra được thông điệp nào từ đó? Không một ai buồn quan tâm tới những câu hỏi ấy cả. Và khẩu hiệu kiểu như thế vẫn cứ được in ra, treo tràn lan bất chấp hiệu quả bằng 0 và tiêu tốn rất nhiều tiền từ ngân sách đúng như một kiểu lãng phí điển hình của thời quan liêu.

Nguy hiểm hơn nữa của bệnh “khẩu hiệu tệ” này chính là việc không ít cán bộ, công chức đã hình thành tập quán hễ phát biểu là hô khẩu hiệu. Khi một khẩu hiệu được họ tuyên ngôn ra, nhưng đi theo khẩu hiệu ấy lại không có một chương trình hành động cụ thể nào cả, người dân sẽ không thể duy trì nổi niềm tin lẽ ra cần phải đặt vào chính quyền nữa. Chính cái từ thông tục được sử dụng quen thuộc 30 năm nay là từ “chém gió” đã được tạo ra từ nhận xét của người dân về những cán bộ “miệng hô khẩu hiệu, tay chém phần phật và cuối cùng là không làm gì”.

Chua chát thay, “chủ nghĩa chém gió” ấy hiện đang tồn tại trong bộ máy bởi không ít cán bộ, công chức sợ rằng nếu mình không có những phát ngôn mang tính khẩu hiệu thì chỉ chứng tỏ mình kém hùng biện, không có khẩu khí lãnh đạo thì phải?

Thậm chí, khẩu hiệu còn trở thành ngôn ngữ được dùng trong cả các sản phẩm, tác phẩm văn hóa phục vụ mục đích tuyên truyền như điện ảnh, âm nhạc… Nó khiến cho sản phẩm đó không thể tiếp cận nổi người cần được tuyên truyền bởi sự khô cứng của chúng đã lập tức làm cho người nghe, người xem thiết lập ngay một rào cản tiếp nhận như thể một phản xạ có điều kiện. Và ở những sản phẩm, tác phẩm như thế, chi phí đầu tư cho việc tuyên truyền còn lớn hơn chi phí của những tấm biểu ngữ treo trên phố rất nhiều.

“Lá lành đùm lá rách”, một câu tục ngữ ngàn năm của người Việt tại sao đến nay vẫn còn hiệu quả tuyên truyền, nhất là khi thiên tai xảy ra? Tại vì nó đơn giản, dễ hiểu, dung dị, giàu hình ảnh ẩn dụ. Nó như con cá, lá rau bên vườn nhà của những người làng; như manh quần tấm áo họ mặc mỗi ngày. Nó không gồng lên một điều gì to tát, vĩ đại nhưng nó cách riêng để đánh thức lòng vị tha. Nó không dài dòng hay tạo một áp lực bắt buộc nào. Và vì thế, nó sống đời cùng với tinh thần của người Việt.

Tại sao chúng ta không học từ chính những vốn cổ có sẵn của dân tộc mỗi khi xây dựng một khẩu hiệu nào đó? Tại sao chúng ta không học từ chính những gì đang lan tỏa mạnh mẽ trên mạng xã hội để hiểu rằng ngôn ngữ của thời đại, thông điệp của thời đại cần những yếu tố gì để dễ nhớ, dễ hiểu, dễ phổ cập?

Cơ bản, rất có thể chính những người đưa ra một khẩu hiệu đã không sống hết mình với phong trào mà họ muốn kêu gọi thông qua khẩu hiệu đó. Khi họ không sống hết mình với nó, họ làm mọi thứ như thể trả bài, miễn cho xong chứ không quan tâm đến hiệu quả sau cùng.

Nhưng, suy cho cùng, phát biểu “làm việc, hành động nhiều hơn; ít khẩu hiệu hơn” mà Tổng Bí thư Tô Lâm đưa ra vẫn là điểm quan trọng nhất trong việc cần cải cách công tác tuyên truyền hiện nay. Sẽ không người dân nào tin vào một khẩu hiệu dù nó được thiết kế đẹp đến mấy, súc tích đến mấy, ngắn gọn đến mấy, đúng hơi thở thời đại đến mấy nếu như người đưa ra khẩu hiệu hành động đi ngược với chính khẩu hiệu.

Và nếu những người lãnh trách nhiệm trong bộ máy hành động nhiều hơn, thiết thực hơn, chính họ sẽ tạo ra niềm tin, hình mẫu hành động cho cộng đồng mà không khẩu hiệu nào có thể có sức tuyên truyền hiệu quả bằng. Lúc ấy, số lượng khẩu hiệu chắc chắn sẽ ít lại, song ít nhưng mà tinh. Và trong một môi trường ít khẩu hiệu hơn hẳn, mỗi khẩu hiệu đưa ra không bị lọt thỏm giữa muôn vàn “đồng loại” khác của mình, chắc chắn thông điệp mà khẩu hiệu ấy chuyển tải sẽ có sức lan tỏa sâu và rộng hơn trong cộng đồng.

Hà Quang Minh

.
.