Hạnh phúc và nỗi lo

Thứ Hai, 27/10/2025, 09:14

LTS: Trong thời gian gần đây, chúng ta đã được nghe về việc phải đề cao tiêu chí “Hạnh phúc cho nhân dân”. Mưu cầu hạnh phúc luôn luôn tồn tại, và chính đáng. Nhưng để hiểu được thế nào là hạnh phúc, có lẽ cần thấu hiểu nỗi lo của nhân dân trước đã.

Mối lo tăng theo... giá vàng

Tôi đã từng làm việc cho một tờ báo mà vào thời hoàng kim, nhuận bút một trang của nó có thể tương đương với… nửa chỉ vàng.

Hạnh phúc và nỗi lo -0
Người dân xếp hàng chờ mua vàng trên phố Trần Nhân Tông.

Khi tôi vào làm, thì thời hoàng kim đó đã qua, nhưng cơ bản là vẫn sống được. Sau vài năm tích lũy, tôi cũng mua được nhà trả góp từ tiền nhuận bút. Ngoài việc viết cho tờ báo, tôi cũng chỉ cộng tác với vài bên khác nữa. Nói chung là tôi có thể tích cóp, tiết kiệm để mua một tài sản nào đó, chỉ từ chuyên môn của tôi mà thôi.

Bây giờ, trong số hầu hết các phóng viên tôi quen, ai cũng có một nghề khác, thậm chí đôi ba nghề, để kiếm sống. Lương và nhuận bút từ lâu chỉ có thể trang trải cho điều kiện sống tối thiểu.

Mức lương tối thiểu vùng 1 (tức ở Hà Nội/TP Hồ Chí Minh) hiện là khoảng 5 triệu, dự kiến sẽ tăng lên 5,31 triệu từ 2026. Nhưng theo số liệu của Viện nghiên cứu Anker, một tổ chức phi lợi nhuận chuyên nghiên cứu về thu nhập tối thiểu, giả sử có hai người (bố-mẹ) đi làm trong một gia đình cơ bản (có 2 con) thì chừng đó thu nhập chỉ đáp ứng được khoảng 2/3 chi phí sinh hoạt ở vị trí tương tự.

Lý thuyết giá trị lao động được phát triển bởi các nhà kinh tế cổ điển như Adam Smith, David Ricardo đo giá trị của lao động bằng chi phí xã hội trung bình để duy trì và tái tạo sức lao động (bao gồm chi phí sống cho bản thân và gia đình). Ngoài GDP, thì khoảng cách giữa thu nhập cơ bản (minimum wage) và mức sống tối thiểu (living wage) theo vị trí địa lý sẽ quyết định xem người dân có chất lượng sống tốt hay không.

Theo báo cáo “The Case for Living Wages” (Lương sinh hoạt tối thiểu) của Đại học Cambrigde (Anh) năm 2022, cập nhật 2025, ở các nước đang phát triển, khoảng cách giữa thu nhập cơ bản và chi phí sinh hoạt tối thiểu trung bình là 20-50%, nghĩa là thu nhập thực tế chỉ đáp ứng 50-80% nhu cầu cơ bản. Ví dụ, ở Ấn Độ, chi phí cho gia đình 4 người là ~15.000 INR/tháng (khoảng 180 USD), trong khi thu nhập cơ bản chỉ ~10.000 INR, phản ánh giá trị sức lao động bị đánh giá thấp 33%.

Nó cũng giải thích tại sao tại các quốc gia có GDP cao ngất ngưởng như Hàn Quốc hay Trung Quốc, nhiều người vẫn ngại kết hôn vì chi phí nuôi con, hay thậm chí còn tạo ra một thế hệ thanh niên “nằm thẳng”, không còn động lực gì để lao động.

Lý do? Họ biết rằng dù có lao động bao nhiêu năm đi nữa, cũng không đủ tiền để đảm bảo một cuộc sống không bấp bênh.

Vào thời điểm tôi viết bài này, giá vàng đã tăng đến hơn 150 triệu đồng/lượng. Tức nếu bạn dành dụm tất cả thu nhập cơ bản kiếm được trong khoảng 3 năm, không tiêu pha gì, thì mới mua được một lượng.

Tại sao lại nói về vàng ở đây? Với thế hệ chúng tôi và thậm chí là bố mẹ chúng tôi, vàng là bản vị của hy vọng. Bà và mẹ tôi đã tích cóp từng chỉ vàng để trong hộp bánh Dasani đựng kim chỉ, mong rằng lưu lại chút của cải cho con cháu. Vàng là nơi trú ẩn sức mua, và bảo toàn giá trị lao động của thế hệ trước.

Nhưng giá vàng dựng đứng hiện tại, ngược lại, đã và đang trở thành biểu tượng của sự tuyệt vọng: trước khi muốn trú ẩn sức mua trong vàng, ít nhất người ta phải để dư được một số tiền mỗi tháng. Tức là bằng cách đi làm và tiết kiệm một cách cổ điển, một người có thể trang trải các chi phí cơ bản để tái tạo lao động, đồng thời đầu tư vào một giấc mơ cho tương lai, hoặc thậm chí nhiều thế hệ sau, bằng việc đầu tư bền bỉ vào một tài sản như vàng. Một con đường vất vả, nhưng có hy vọng.

Một người Việt sẽ phải tích lũy hơn 20 năm, bằng đúng khoảng cách của một đứa trẻ từ lúc lớn lên cho đến khi nó vào đại học, để hy vọng mua được một ngôi nhà, trong điều kiện họ… không chi tiêu đồng nào. Đấy là một sự bế tắc khác, nguy hiểm ở chỗ nó triệt tiêu mong muốn lao động và tiết kiệm đàng hoàng từ trong trứng nước. Trong số những người trẻ tôi quen biết, không ít người đã vay mượn ném hàng đống tiền vào crypto, forex, những canh bạc bấp bênh, có lẽ ngoài lòng tham, thì một phần đến từ cảm giác này.

Tăng trưởng hai con số với một quốc gia là điều vô cùng quan trọng, nhưng tạo điều kiện để những giấc mơ đơn giản như thời “ông bà ta” tồn tại cũng quan trọng không kém: mua vàng để cất vào tủ sau một tháng lao động vất vả cũng là gieo những hy vọng cho tương lai.

Phạm An

752 mặt hàng, chưa có món “yên tâm”

Trong danh mục hàng hóa để tính ra chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có tới 752 mặt hàng. Nhưng bảng danh sách đồ sộ này có phản ánh được sự yên tâm của người dân?

Hạnh phúc và nỗi lo -0

Nếu nhìn vào danh sách 752 mặt hàng để tính chỉ số giá tiêu dùng của Tổng cục Thống kê, chúng ta sẽ nhận ra nỗ lực quan tâm tới mọi mặt của đời sống nhân dân. Từ những hàng hóa cơ bản như cân rau muống, cân gạo, bánh kẹo, sữa đóng hộp, cho đến những thứ mang tính hưởng thụ như chai rượu vang Chile, chuyến đi du lịch nước ngoài… đều được tính tới.

Nhưng việc đã có tới 752 mặt hàng, rất toàn diện, được xem xét trong chỉ số giá tiêu dùng, và chỉ số này được kiểm soát ổn định, không giải thích được vì sao dân vẫn… chen chúc đi mua vàng. Nó cũng không giải thích được vì sao bất chấp giá bất động sản được nhận định là “cao vô lý”, vẫn có nhiều gia đình sẵn sàng đánh đổi tương lai, vay những khoản vay khổng lồ để “an cư lạc nghiệp”. Có vẻ như “đủ sống” không làm thỏa mãn nhiều thành viên cộng đồng. Chúng ta cần tìm về cơ chế hình thành sự yên tâm trong đời sống, để giải thích sự bất an này.

Thì đây: CPI không xem xét chi phí mua nhà. Nó chỉ xem xét chi phí thuê nhà hàng tháng. Điều này hợp lý, về lý thuyết, bởi đây là chỉ số giá tiêu dùng chứ không phải chỉ số giá tài sản. Nhưng thuê nhà có tạo ra sự yên tâm không? Câu trả lời là không, ngay cả khi bạn có đủ tiền, ngay cả khi giá thuê nhà ổn định.

Thị trường nhà cho thuê tại Việt Nam là một khoảng xám của hành pháp, nơi mà bạn có thể chịu tăng giá, bị đuổi ra khỏi nhà trọ bất kỳ lúc nào, những tranh chấp phát sinh thường xuyên về nghĩa vụ của người cho thuê và đi thuê. Chính tôi, giữa mùa giãn cách xã hội vì COVID, cũng đã phải dọn ra khỏi căn nhà mình đang thuê. Tôi chỉ thuê ngắn hạn nửa năm để xây nhà riêng, nhưng ở được 3 tháng đã phải nghe một lý do mà người thuê nhà Việt Nam hẳn đã quen thuộc: “Chị sắp bán, em thông cảm nhé”.

Thì đây: CPI không xem xét nguồn gốc hàng hóa. Một mớ rau muống được trồng theo tiêu chuẩn nào cũng là mớ rau muống. Một bữa ăn tiệm dù ở mức độ vệ sinh và dịch vụ nào cũng là bữa ăn tiệm. Chúng ta biết rằng có rất nhiều mặt hàng ở Việt Nam có giá rẻ vì những chi phí cần thiết đã bị lược bỏ. Người trồng rau có thể lược bỏ chi phí thời gian (bằng việc bơm cái thuốc kích mọc lá gì đó); người bán giò chả có thể lược bỏ chi phí nguyên liệu (bằng việc mua thịt lợn cũ, hỏng); người bán hàng ăn có thể lược bỏ chi phí vệ sinh an toàn thực phẩm (bằng việc rửa bát và chế biến thịt cạnh thùng rác, nhà vệ sinh). Tất cả đều là có thể, nhưng chỉ cái “có thể” này thôi đã tước mất quyền yên tâm rồi.

Thì đây: CPI không xem xét tiêu chuẩn dịch vụ. Một số dịch vụ có sự chênh lệch khổng lồ giữa khoảng giá thấp nhất và cao nhất. Ví dụ như y tế, ngành đối diện với tình trạng quá tải ở nhiều nơi. Tại đó, chi phí của người dân, ở khoảng giá tối thiểu, sẽ không chỉ có viện phí, mà là rất nhiều thời gian xếp hàng, chờ đợi, nhiều sự chấp nhận thiếu thốn cơ sở vật chất (Có đủ giường nằm không? Nhà vệ sinh bệnh viện có mùi không? Có đủ xe lăn chuyển bệnh nhân không?). Nếu chỉ tính tiền và nói rằng dân “vẫn chi trả được” thì đúng về mặt logic, nhưng không tạo ra sự yên tâm.

Để mua lấy sự yên tâm trong các trường hợp này, thật ra người ta phải chi trả cao hơn nhiều so với mặt bằng. Thuê nhà muốn được tôn trọng hợp đồng, làm ơn thuê căn hộ hạng sang. Mua rau muống hay ăn bát bún muốn yên tâm về vệ sinh an toàn thực phẩm, làm ơn vào trung tâm thương mại mà mua. Không muốn vừa tự giơ bình thuốc truyền vừa xếp hàng làm thủ tục, muốn tránh cảnh nằm giường xếp trên hành lang bệnh viện, làm ơn vào bệnh viện tư mà nằm.

Và thế là, cho dù CPI tăng ít hay tăng nhiều, trạng thái không yên tâm này vẫn khiến người ta lao lên tìm cách thoát khỏi thực tại: họ đổ xô vào đất, họ xếp hàng mua vàng, ai cũng đủ sống nhưng không ai đủ an nhàn. Và hạnh phúc rất khó đạt tới.

Bài viết này không nhằm bắt chỉ số CPI gánh mọi khía cạnh của “hạnh phúc” trong đời sống nhân dân. Việc nhìn kỹ vào danh mục 752 mặt hàng mà chính phủ cho là phản ánh các khía cạnh của đời sống tiêu dùng, chỉ để nói lên một thực tế, rằng “đủ sống” là một khái niệm rất nhiều hạn chế. “Đủ sống” trong nhiều bối cảnh vẫn gần với sự bấp bênh hơn là sự yên tâm.

Và khi một đại biểu hoặc quan chức đứng lên nói về “người dân đủ sống” như một khẩu hiệu, hãy tự hỏi lại: thật ra đủ ở đây là đủ để mua rau muống loại nào, thuê cái nhà trọ kiểu gì và nằm bệnh viện ở đâu? Trong một số trường hợp, bệnh nhân tại Việt Nam vẫn không thực sự “nằm viện”. Người viết đã từng trải qua rồi: giường bệnh ở Hà Nội thiếu đến mức nếu bệnh nhẹ, bạn chỉ có thể ngồi ké vào giường người khác thôi.

Đức Hoàng

Còn 1% là còn âu lo

Đúng ngày 17/10, ngày Quốc tế xóa nghèo, trên fanpage của Ngân hàng Thế giới (WB) có đưa thông tin đại ý “từ một quốc gia có 50% dân số nghèo cùng cực vào năm 1992, chỉ 30 năm sau, Việt Nam đã nỗ lực và chỉ còn 1% dân số sống trong điều kiện nghèo cùng cực”.

Hạnh phúc và nỗi lo -0

Đó hẳn là một thông tin tích cực vô cùng. Nó cho thấy cả một bước chuyển mình rất lớn của Việt Nam kể từ sau khi tiến hành đổi mới. Thậm chí, nếu so sánh mặt bằng chung của năm 1992 với năm 2025 này, chúng ta sẽ còn nhận ra cái “nghèo cùng cực” của hiện tại còn dễ thở hơn cái nghèo của 1992 rất nhiều. Song, sức tăng trưởng đáng khen ngợi đó không nên là liều thuốc ru ngủ. Lạc quan đến mấy cũng cần nhận ra rằng, vẫn còn 1% người sống ở mức nghèo cùng cực có nghĩa là vẫn còn quá nhiều việc phải làm.

Gần đây, trên một phóng sự của VTV về tình trạng người trẻ ngại kết hôn và sinh con, đã có không ít ý kiến của người trẻ đủ khiến người xem phải giật mình. Hóa ra, giới trẻ không hồn nhiên như chúng ta mặc định nghĩ về họ. Họ nhìn về tương lai với rất nhiều mối lo và cân nhắc nó với những gì họ đang có trong tay. Chính điều đó đã khiến họ đi đến quyết định không kết hôn, hoặc còn ngập ngừng chờ đợi mà chưa biết đợi đến khi nào.

Cũng một phóng sự khác trên VTV, tôi xem được câu chuyện của một thanh niên mới ra trường, đang ở trọ và đi làm tại Hà Nội. Chàng trai chia sẻ thẳng thắn cách cậu ta tiết kiệm triệt để ra sao. Cậu tận dụng tối đa thời gian ở công ty để không phải sử dụng điện, nước tại nhà. Thậm chí, có nhiều hôm cậu còn ngủ lại công ty trên chiếc sofa.

Ngay cả nước uống, cậu cũng hứng từ công ty đóng chai mang về. Nghe có vẻ hà tiện quá nhưng nếu ta không ở trong hoàn cảnh của họ, chúng ta khó có thể phán xét. Chỉ biết, đã từng có những thống kê cho thấy để một gia đình có thể sinh sống ở hai đô thị lớn nhất Việt Nam là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh cần khoảng 30 triệu đồng mỗi tháng. Nhưng thử hỏi, bao nhiêu người trẻ đang làm việc tại hai đô thị đó chỉ với mức thu nhập khoảng 10 triệu đồng? Họ sẽ sống ra sao nếu không hà tiện?

Chúng ta vẫn đơn giản nghĩ, mối lo thường nhật ấy chỉ dành cho người nghèo cùng cực, người nghèo, người ở vùng sâu, vùng xa nhưng thực tế, nỗi lo biểu hiện rõ nét và phổ biến trên từng gương mặt cần lao lướt qua chúng ta mỗi ngày. Mỗi con người cần những gì cơ bản nhất để tồn tại? Họ cần được ăn cho đủ bữa; họ cần được mặc lành lặn; họ cần một nơi để ở… Còn để sống, họ sẽ cần nhiều thứ cơ bản hơn nữa như y tế, giáo dục…

Tất cả những thứ cơ bản kể trên hiện nay có đang ở tình trạng đủ “an tâm” dành cho mọi người dân hay không? Câu trả lời này, từng người có thể tự lên tiếng nhưng với những nhà hoạch định chính sách, họ cần thực sự “sống trong dân” một thời gian thì may ra họ mới thấu hiểu được hết những nỗi lo còn tồn đọng ngày qua ngày.

Mới đây, đợt thiên tai dồn dập đã gây ra rất nhiều mất mát ở vùng Đông Bắc Bộ. Phải thừa nhận, chúng ta chưa chuẩn bị thật tốt cho một kịch bản lũ như thế ở các tỉnh miền núi và trung du Đông Bắc. Chúng ta quen với việc bão gây thiệt hại miền duyên hải và lũ lụt thường là ở Tây Bắc hay ở miền Trung. Nhưng ngay cả ở những nơi chúng ta đã quen với kịch bản thiên tai hàng năm đi nữa, những chuẩn bị có đủ để giải tỏa đa phần nỗi lo của người dân hay không?

Hãy thử hình dung về những hộ ngư dân ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình chẳng hạn. Một năm trước, nhiều trong số họ gần như mất tất cả vì cơn bão Yagi. Mới chỉ vừa vay mượn từ khắp các nguồn, kể cả ngân hàng chính sách, để gầy dựng lại từ đầu, một năm sau, họ gần như không còn gì cả. Họ sẽ quay lại với đời sống bình ổn theo cách nào, và ở thời điểm nào trong tương lai?

Mỗi cá nhân trong xã hội đều mang một câu chuyện riêng, một tâm sự nhỏ nhưng nếu nhiều câu chuyện riêng đồng dạng, nhiều tâm sự nhỏ đồng điệu thì cần phải được xem đó là một đại sự.

Cũng chỉ mới hôm qua, biên tập của tôi có so sánh cách đây 20 năm, viết 1 phóng sự tiền nhuận bút đủ mua 2 chỉ vàng. Còn bây giờ, viết 10 phóng sự không mua nổi 1 chỉ vàng. Chúng tôi cầm bút, làm báo, đúng-sai có khi, nhưng phổ biến nhất là chúng tôi vẫn hay bị cộng đồng mạng vơ đũa cả nắm mắng mỏ đại ý “múa bút đong tiền”. Cách mà họ mắng mỏ đó làm chúng tôi cảm thấy xót nghề vì họ hiểu lầm về nhuận bút quá.

Báo chí Việt Nam 20 năm nay nhuận bút gần như không tăng, thậm chí còn giảm. Trong khi đó, đồng tiền ngày càng mất giá nếu so sánh từ gói xôi buổi sáng cho tới con cá, lá rau buổi chiều. Trong sự thay đổi một chiều của giá bên cạnh một thu nhập bất biến về con số (nhưng sụt giảm về giá trị thực), ít có ai dám nghĩ đến hạnh phúc mà chỉ ngập trong âu lo mà thôi.

Khi những người dân bình thường mỗi ngày mỗi phải tập quen với một bài toán mới về chuyện “đong dưa, đếm mắm” khi chi tiêu thiết yếu, vẫn có số ít những người một ngày dùng 3-4 điếu cigar tiền triệu, mua những căn hộ giá vài trăm triệu/m2. Như vậy, xã hội cũng đang hình thành 2 tầng lớp trẻ em cách biệt nhau rất rõ. Số đông trẻ em học trường công lập, với những điều kiện giáo dục, đào tạo, cơ sở vật chất tối thiểu nhất trong khi số nhỏ khác được trang bị kỹ lưỡng đủ mọi thứ ngay từ nhỏ. Xuất phát điểm khác nhau, chúng không vào đời với lẽ công bằng cơ hội giống nhau được. Như vậy, cha mẹ của những đứa trẻ thuộc tầng lớp bình dân có bị nhân gấp mấy lần nỗi lo lên hay không?

Trong cái không khí chung như thế, câu chuyện âu lo của giới bình dân càng trở nên xót xa hơn khi chính cái nghèo nhiều khi lại biến họ thành nạn nhân trong nhiều câu chuyện lớn của xã hội.

Điển hình như vụ Ngân 98 mới đây thôi. Ai là khách hàng mua hàng giả của Ngân 98 nhiều nhất? Thực tế là người ít tiền. Những người nhiều tiền nếu cần thực phẩm chức năng, thuốc giảm cân hay mỹ phẩm, họ không kiếm tìm trên những kênh TikTok bán hàng mà họ sẽ vào thẳng cửa hàng của những hãng uy tín. Cái mức giá rẻ bèo mà những người như Ngân 98 dựa vào đó để tạo khối tài sản khủng chính là mức giá dành cho người nghèo.

Thực phẩm bẩn, kém chất lượng cũng vậy thôi. Chúng sẽ vào bếp ăn tập thể của công nhân ở khu công nghiệp hay là một nhà hàng ở trung tâm thành phố? Như vậy, song song với âu lo mưu sinh hàng ngày, cái âu lo về an toàn của người bình dân cũng lớn không kém. Đó là còn chưa kể đến những chuyện to tát khác trong đời như “tậu trâu, dựng vợ, xây nhà”, những chuyện mà với nhiều người đã không còn là ước mơ nữa rồi mà trở thành ảo mộng thực sự với việc giá nhà như ở trên trời.

TP Hồ Chí Minh đã miễn học phí cho học sinh cấp tiểu học được vài năm nay nhưng thực tế khoản thu hàng tháng vẫn chẳng khác gì so với thời còn đóng học phí, nếu không nói là còn tăng thêm. Như vậy, với một cặp vợ chồng có 1 đứa con thôi, ít nhất mỗi tháng họ cần 20 triệu để duy trì đời sống gia đình trong trường hợp may mắn có chỗ ở chứ không phải đi thuê nhà. Thử hỏi, họ có dám sinh thêm con thứ hai hay không, ngay cả khi nhà nước có những chính sách khuyến khích và hỗ trợ?

Khuyến khích và hỗ trợ thường chỉ là 1 lần duy nhất trong khi chi phí sinh hoạt là câu chuyện ngày này qua tháng khác và kéo dài trong tương lai. Đó cũng chính là nguyên nhân cơ bản để nỗi âu lo lớn hơn hình thành: nỗi lo khi qua giai đoạn dân số vàng, sự suy giảm tỷ lệ sinh có thể đẩy Việt Nam vào thử thách lớn trong phát triển kinh tế lâu dài.

Người ta chỉ có thể bắt đầu cảm nhận và mong mỏi hạnh phúc khi không còn phải âu lo thường trực nữa. Để triệt tiêu âu lo ấy, phải tạo ra được cơ hội công bằng, sòng phẳng cho người dân lao động. Cơ chế lương, thưởng ở các cơ quan nhà nước cũng cần phải thay đổi sang cơ chế thương thảo để thù lao nhận được xứng đáng lao động bỏ ra. Không thể nào nhận về sản phẩm, dịch vụ tốt nếu như trả số tiền không tương xứng cả.

Và vượt trên hết, cách vận hành ưu ái thân quen, nhân thân, ruột thịt cũng cần bị khai tử. Những nhà hoạch định chính sách phải biết lo âu trước khi nhân dân âu lo. Và vì thế, khi vẫn còn 1% dân số còn phải nghèo khổ, nỗi lo của những nhà hoạch định chính sách vẫn phải là nỗi lo thường trực để từ đó xây dựng, hoạch định được những sách lược, hành động vực dậy cả một cộng đồng.

Hà Quang Minh

.
.