Để văn kiện tươi mới và đảm bảo tính hành động
"Một số công trình trọng điểm, có tính dẫn dắt phải được ưu tiên, tránh tình trạng đề ra quá nhiều đề án, dự án nhưng nguồn lực không đáp ứng được, hoặc là không đạt được yêu cầu chung. Đây chính là nội dung quan trọng để đảm bảo tính khả thi và tính hành động của văn kiện lần này" - Tổng Bí thư Tô Lâm lưu ý tại buổi làm việc về dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, sáng 30/7/2025.
Tại buổi làm việc, Tổng Bí thư Tô Lâm cho rằng, trong giai đoạn tới, song song với việc gửi đại hội Đảng các cấp đóng góp ý kiến, thường trực các Tiểu ban, Ban Chỉ đạo tiếp tục chủ động nghiên cứu, rà soát, cập nhật, bổ sung, hoàn thiện dự thảo các văn kiện.
Tổng Bí thư yêu cầu, Thường trực Tiểu ban Kinh tế - Xã hội phối hợp với Đảng ủy Chính phủ chỉ đạo Đảng ủy Bộ Tài chính rà soát các nội dung trong báo cáo, nhất là chương trình hành động để thực hiện Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng, tính toán khả năng huy động nguồn lực, khả năng đáp ứng nguồn vốn, các điều kiện để tổ chức thực hiện. Nhiều đề án, dự án, công trình được đề cập trong chương trình phải tính toán sơ bộ về điều kiện triển khai thực hiện; phải xác định rõ việc nào làm trước, việc nào làm sau, mang lại hiệu quả và phải tính đến yếu tố ổn định phát triển. Một số công trình trọng điểm, có tính dẫn dắt phải được ưu tiên, tránh tình trạng đề ra quá nhiều đề án, dự án nhưng nguồn lực không đáp ứng được, hoặc là không đạt được yêu cầu chung. Đây chính là nội dung quan trọng để đảm bảo tính khả thi và tính hành động của văn kiện lần này.

Trước đó, chủ trì cuộc họp Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, Tổng Bí thư cho rằng, thời gian qua, các đoàn công tác của Tiểu ban Văn kiện đã có những cuộc khảo sát thực tiễn và làm việc với một số bộ, ngành, địa phương. Từ kết quả của các chuyến khảo sát và buổi làm việc này, cần tìm ra những cách làm hay, mô hình mới để khái quát, nâng lên tầm lý luận, góp phần đề ra chủ trương, đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Việc tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách phải gắn với thực tiễn luôn thay đổi nhanh chóng; cần mang tính khái quát song cũng không thể chung chung, cảm tính; những gì đã chín, đã rõ, đã được thực tiễn, nhất là thực tiễn qua 40 năm đổi mới, chứng minh là đúng, lần này rất cần được khẳng định và thể hiện trong văn kiện.
Những chỉ đạo của Tổng Bí thư đã khơi dậy "luồng gió mới", sức sống mới trong việc xây dựng dự thảo các văn kiện trình đại hội. Lâu nay, chúng ta thường có suy nghĩ rằng, đã là văn kiện, nghị quyết thì khô cứng, là lý luận, hàn lâm... Do việc soạn thảo văn kiện, nghị quyết nhiều nội dung chỉ nêu vấn đề và đặt mục tiêu, hành động chung chung nên tính khả thi, tính hành động còn phụ thuộc vào các văn bản khác để cụ thể hóa. Đó có thể là quá trình dài nhiều năm, thậm chí vắt từ nhiệm kỳ này sang nhiệm kỳ khác. Nay, với chỉ đạo định hướng của Tổng Bí thư, chúng ta nhận thức rõ thông điệp về sức sống mới của văn kiện, tính khả thi, tính hành động. Không chỉ nêu chung chung về đường hướng phát triển mà một số công trình trọng điểm, có tính dẫn dắt cũng phải được cụ thể hóa, phải được ưu tiên, tránh tình trạng văn kiện đề ra quá nhiều đề án, dự án nhưng chỉ nêu chung hoặc nêu ra nhưng nguồn lực không đáp ứng được.
Trong việc soạn thảo văn kiện, kiên định đi lên CNXH là đường lối nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, là sự lựa chọn của lịch sử. Tuy nhiên, với sự biến đổi không ngừng của tình hình thế giới, khu vực, việc kiên định con đường phát triển đất nước không có nghĩa là rập khuôn máy móc, chỉ bám theo những mô hình, chính sách cũ mà thiếu sự sáng tạo. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững và sẽ còn tiếp tục phát triển, có sức sống trong thực tiễn cách mạng. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc để chủ nghĩa, học thuyết luôn luôn tươi mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, lạc hậu với cuộc sống.
Thực tiễn quá trình đổi mới cho thấy, với sự kiên định nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo, bám vào thực tiễn vận động của đời sống kinh tế, chính trị trong nước và bối cảnh quốc tế để học thuyết luôn tươi mới. Việc vận dụng phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được coi là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.
Thay đổi nhận thức, tư duy và hành động về kinh tế tư nhân (KTTN) trong các giai đoạn cách mạng đã thể hiện rõ quan điểm luôn bổ sung, phát triển để học thuyết luôn tươi mới, phù hợp sự vận động của nền kinh tế và xu thế thời đại. Trước các thách thức đặt ra, Đảng ta đã luôn tìm tòi, điều chỉnh những chính sách kinh tế phù hợp. Văn kiện Đại hội VI khẳng định "Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế... Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch". Đến Đại hội VIII, Đảng ta chủ trương tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài, trong đó "kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài". Đại hội X (tháng 4/2006) xác định, KTTN có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Nghị quyết số 10-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII xác định phát triển KTTN "trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN".
Và, tới nay, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đánh dấu bước tiến quan trọng trong tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Đảng khi xác định "KTTN là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân". Đây là sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức chiến lược: từ việc coi KTTN là khu vực bổ trợ, nay trở thành một trụ cột phát triển, song hành cùng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tạo nên thế "kiềng ba chân" vững chắc cho một nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập hiệu quả. Phát triển KTTN không chỉ là nhu cầu kinh tế mà còn là mệnh lệnh chính trị nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia và khả năng thích ứng trong bối cảnh toàn cầu đầy biến động.
Như vậy, xuyên suốt quá trình từ khi công cuộc đổi mới bắt đầu đến nay, việc xác định vai trò, vị trí của KTTN thể hiện những thay đổi về tư duy để thành phần kinh tế này ngày càng phát huy hiệu quả, là bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về vị thế của KTTN trong thời kỳ mới. Đến nay, đã xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển KTTN lành mạnh và đúng định hướng. Đương nhiên, việc đẩy mạnh KTTN phải song song việc phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước với tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, thực hiện công khai, minh bạch để ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực của loại hình kinh tế này, nhất là phòng, chống các hành vi thao túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính. Đây chính là việc thể hiện "định hướng XHCN" của các thành phần kinh tế nói chung, KTTN nói riêng, khác với việc để phát triển tự nhiên, gia tăng các mặt trái.
Thêm một minh chứng sống động cho thấy sự vận dụng sáng tạo, để học thuyết thể hiện sức sống mới là quy định về đảng viên làm KTTN. Quy định số 15-QĐ/TW, ngày 28/8/2006 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về đảng viên làm KTTN là một quy định phù hợp yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, khi đó trong Đảng, trong xã hội có nhiều ý kiến khác nhau. Có những quan niệm cũ đã bám rễ, mặc định rằng nếu đảng viên làm KTTN thì sẽ chệch hướng, sẽ bị tư bản hóa, không còn là đảng viên của giai cấp vô sản. Trong khi đó, cũng có những luồng quan điểm lợi dụng hiện tượng kinh doanh bất chính của một số đảng viên để đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc chủ trương của Đảng. Song, qua thực tiễn cho thấy, đây là chủ trương đúng đắn, khoa học, cho phép đảng viên làm KTTN nhưng phải gắn với những quy định bắt buộc.
Khi Đảng đẩy mạnh phát triển thành phần KTTN thì đảng viên phải phát huy vai trò gương mẫu, không thể coi đó là việc của xã hội để phủ nhận việc của đảng viên. Do đó, Quy định số 15-QĐ/TW được ban hành cho phép đảng viên làm KTTN không giới hạn về quy mô song phải gương mẫu chấp hành Điều lệ Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước và các quy định cụ thể của Ban Chấp hành Trung ương. Quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho những đảng viên có vốn, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh yên tâm phát huy nguồn lực, năng lực để làm giàu chính đáng cho bản thân, gia đình, đóng góp tích cực phát triển kinh tế - xã hội. Sự ra đời của Quy định số 15 đã hướng mở cho rất nhiều người, không còn phải đắn do lựa chọn hoặc là phát triển KTTN, hoặc là trở thành đảng viên thì "nói không" với KTTN.
Những dẫn chứng trên về sự phát triển của thành phần KTTN bác bỏ quan điểm cho rằng, Đảng ta vận dụng máy móc, giáo điều, áp dụng xơ cứng, lạc hậu làm kìm hãm sự phát triển đất nước. Ngược lại, chính những đổi mới về tư duy, về đường lối, quan điểm đã thể hiện sự năng động, sáng tạo của Đảng, bám sát yêu cầu thực tiễn đặt ra để đảm bảo tính khả thi và tính hành động của văn kiện.