Tiến sĩ Văn học Hà Thanh Vân: Có người gọi tôi là “cường hào ác bá”!
Bình thản giữa búa rìu dư luận, dấn thân vào phê bình công khai, Tiến sĩ Hà Thanh Vân là cây bút cá tính mạnh, đôi khi ngược dòng. Nhưng, phía sau là một người phụ nữ nồng nhiệt, yếu mềm, với niềm tin mãnh liệt vào giá trị lõi của nghệ thuật. Trong thời đại số vội vã, chị xem văn chương như kháng thể mong manh mà bền bỉ, chống lại sự lãng quên và nông nổi; đồng thời, đối thoại với ANTG Giữa tháng - Cuối tháng về những vết thương tinh thần của một đời sống văn hóa đang chật vật để không bị cuốn trôi.
Phình to số lượng, co hẹp chiều sâu: Khủng hoảng văn học
PV: Chào chị Vân. Trong hơn nửa thế kỷ qua, nhiều thế hệ Việt Nam “đọc để trưởng thành”. Nhưng, hôm nay, khi “xem nhanh, lướt nhanh” lên ngôi trong môi trường số, theo chị, liệu thuật toán và văn hóa tiêu dùng đang làm suy giảm vị thế của văn chương?
TS Hà Thanh Vân: Có thể nói như thế. Đọc để trưởng thành không chỉ để giải trí mà còn để hình thành nhân cách và tái tạo ý nghĩa cuộc sống, thậm chí mở ra những khát vọng, ước mơ, những động lực phấn đấu. Nhưng, giờ, vị thế của văn chương rõ ràng bị thử thách. Cần nhìn thẳng vào hai khía cạnh là văn hóa tiêu dùng và cơ chế vận hành của thuật toán. Xã hội ngày nay hầu như được vận hành theo tinh thần “nhanh - nhiều - ngắn - dễ tiếp cận”, và công chúng thành người tiêu dùng nội dung hơn là người kiến tạo. Thị hiếu của công chúng bị dẫn dắt bởi các yếu tố như quảng cáo và các sản phẩm văn hóa công nghiệp đóng gói sẵn, na ná nhau.
Thêm vào đó, chúng ta đang bị chi phối bởi những cỗ máy lọc, thuật toán ưu tiên những nội dung dễ lan truyền, gây sốc, hơn là những văn bản cần suy ngẫm chậm rãi. Văn chương vốn cần chậm và quãng thời gian ngẫm nghĩ cần thiết, nay đã trở thành một món hàng kén khách trong dòng chảy ào ạt của những thông tin số. Khi sự kiên nhẫn, khả năng đọc sâu, đọc lâu đang dần bị xói mòn, văn chương mất đi vị thế vốn có trong đời sống tinh thần đương đại.
PV: Liệu chúng ta có đang nhầm lẫn giữa "xuất bản nhiều" như một biểu hiện của ngành công nghiệp văn hóa và một "đời sống văn học thực thụ" với chiều sâu triết học?
TS Hà Thanh Vân: Đúng là hiện nay chúng ta dễ lầm tưởng “xuất bản nhiều” đồng nghĩa với đời sống văn học phong phú. Nhìn bề nổi, số lượng sách tăng vọt, thể loại đa dạng, dịch thuật phong phú. Nhưng, nhìn sâu, sách càng “phình to” số lượng thì càng “co hẹp” về chiều sâu triết học, thẩm mỹ, nhân văn. Khi tác phẩm ra đời để chiều thị trường, ngôn từ trở nên tràn lan nhưng nông cạn. Giữa vô số truyện ngôn tình, tiểu thuyết mạng, tản văn mạng, ít thấy những tìm tòi triết học, nghệ thuật thực thụ. Vì thế, cần phân biệt rõ công nghiệp xuất bản với đời sống văn học, nơi giá trị thật chỉ tồn tại khi có dòng chảy ngầm của tư tưởng nhân văn và tìm tòi nghệ thuật bền bỉ.

PV: Tình hình có vẻ khá bi quan, chị nhỉ. Vậy, chúng ta có nên hy vọng một cuộc tái sinh văn chương từ thế hệ trẻ?
TS Hà Thanh Vân: Văn chương có một sức bền đặc biệt: dù vắng bóng trên thị trường ồn ào hay bị lấn át bởi giải trí khác, nó vẫn tồn tại nhờ những độc giả kiên nhẫn và có tầm. Tôi đọc nhiều văn trẻ, thấy sự táo bạo và thể nghiệm mang lại năng lượng mới, nhưng để “tái sinh” là gian nan, bởi công chúng phân mảnh và cái mới thường chỉ dừng ở hình thức. Nếu chỉ chạy theo số lượng, sự tái sinh chỉ là ảo giác. Văn chương không “chết”, nó đang ẩn mình, chờ người viết đủ dũng cảm và người đọc đủ kiên nhẫn.
Mạng xã hội tạo nên một “văn hóa ngắn hạn”, khiến con người tiêu thụ nhanh, chóng quên, mất khả năng tư duy sâu. Nhưng, cũng chính nó mở ra những khả thể thẩm mỹ mới: thơ thị giác, tiểu thuyết đồ họa, truyện kết hợp VR/AR, sách nói, hay những video ngắn truyền cảm hứng đọc sách. Những hiện tượng này cho thấy văn chương không lụi tàn, mà đang tìm cách tồn tại khác. Vấn đề là cách chúng ta gieo hạt mầm - nếu biết gieo đúng lúc, đúng chỗ, “văn hóa ngắn hạn” có thể trở thành bàn đạp cho tư duy dài hạn.
PV: Văn chương từng nuôi dưỡng giấc mơ, lý tưởng cho giới trẻ. Trong kỷ nguyên số, liệu fanfiction, metaverse có thay thế được vai trò ấy? Và, theo chị, có gì công nghệ mãi mãi không thể chạm tới?
TS Hà Thanh Vân: Công nghệ có thể cuốn hút bằng tốc độ, lan tỏa, nhưng điều cốt lõi của văn chương là khả năng thức tỉnh lương tri, nuôi dưỡng chiều sâu nhân tính và trao cho chúng ta những suy tư trăn trở, đó là vùng đất bất khả xâm phạm. Ở Nhật Bản từ thập niên 1980 trở đi, manga và light novel trở thành hành trang tinh thần của nhiều độc giả. Nhưng, “Doraemon” hay “Naruto” không chỉ giải trí mà còn gieo vào giới trẻ những bài học về tình bạn, niềm tin và lý tưởng. Và, nhà văn Murakami Haruki vẫn là thần tượng của nhiều độc giả với nhiều tác phẩm best seller.
Tại Hàn Quốc, các webtoon đã phổ biến, có hàng triệu độc giả, chuyển thể thành phim, tạo thành vòng đời văn hóa đa tầng, nơi câu chuyện gắn liền với hình ảnh, âm nhạc, thời trang. Nhưng, khi nhà văn nữ Han Kang đoạt giải Nobel Văn học, làn sóng văn hóa đọc sách lại bùng dậy mạnh mẽ tại Hàn Quốc, trở thành một cú hích tinh thần cho những nhà văn Hàn Quốc và châu Á.
Nguy cơ “mì ăn liền” và sự im lặng của văn hóa Việt
PV: Chị từng nhiều lần phê phán "hội chứng đạo văn" trong giới học thuật và nghệ thuật. Tôi cho rằng, sở dĩ tình trạng này tiếp diễn là do thiếu vắng "phê bình xã hội học" (sociological criticism). Chị thì nghĩ thế nào?
TS Hà Thanh Vân: Thẳng thắn mà nói, tình trạng “ăn sẵn” trong học thuật, kể cả luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu là khá nhiều. Một số sinh viên và giảng viên không lao động nghiêm túc mà vay mượn, sao chép, dẫn đến “hội chứng đạo văn”. Văn nghệ Việt Nam đương đại cũng mắc căn bệnh tương tự. Nhiều tác phẩm rơi vào vòng lặp motif cũ kỹ, thiếu tìm tòi nghệ thuật. Không ít nhà văn né tránh những vấn đề gai góc của xã hội như bất bình đẳng giới, chênh lệch giàu nghèo, biến đổi khí hậu, khủng hoảng di dân, khủng hoảng niềm tin... mà chọn cách viết an toàn, dễ đọc, dễ bán.
Nguyên nhân là sự thiếu vắng phê bình xã hội học. Phê bình hiện nay thiên về cảm thụ chủ quan, ca ngợi một chiều, ít đặt tác phẩm trong bối cảnh xã hội, quyền lực, giai cấp, giới tính, văn hóa. Thiếu áp lực đối thoại với hiện thực, sáng tác dễ lặp lại hoặc rơi vào thương mại hóa. “Hội chứng đạo văn” và “lặp motif” đều biểu hiện khủng hoảng sáng tạo, khi cá nhân thiếu bản lĩnh tìm con đường riêng. Chúng ta thiếu những nhà phê bình có tài, có tâm, đủ dũng cảm để chỉ ra cái dở và đánh giá đúng cái hay. Sự né tránh chủ đề gai góc phản ánh trạng thái tự kiểm duyệt như Foucault phân tích: quyền lực thấm vào từng cá nhân, khiến họ viết trong “vùng an toàn” để tồn tại và tiến thân. Nhưng, duy trì quán tính thỏa hiệp này sẽ kìm hãm đột phá, bởi mọi sáng tạo đòi hỏi chấp nhận rủi ro và dũng khí bứt phá khỏi giới hạn.
PV: Chúng ta đang thiếu đủ thứ chị nhỉ. Vậy thì giấc mơ cho "nền kinh tế sáng tạo" có quá xa vời không, khi đạo đức và học thuật lung lay bởi đạo đức giả, thiếu nguyên bản, khiến “vốn văn hóa” suy thoái?
TS Hà Thanh Vân: Tôi tin là có thể, vì ta có lợi thế lớn về di sản văn hóa và sức trẻ sáng tạo. Nhưng, nền kinh tế sáng tạo chỉ “thực thụ” khi được xây dựng trên đạo đức, tri thức và sự tôn trọng nguyên bản - những chỗ ta đang khủng hoảng. Khi đạo văn, thiếu trung thực len lỏi vào học thuật, “vốn văn hóa” sẽ bị xói mòn. Muốn khắc phục, cần 3 điều kiện: duy trì niềm tin đạo đức, tôn trọng học thuật sáng tạo, và biết chuyển hóa vốn văn hóa thành giá trị kinh tế. Nếu không, ta chỉ dừng ở công nghiệp giải trí bề mặt; nếu làm tốt, Việt Nam có thể tạo thương hiệu văn hóa cạnh tranh toàn cầu như Hàn Quốc với K-pop, Nhật Bản với manga. Vấn đề không phải “có thể hay không”, mà là ta có đủ bản lĩnh để làm trên nền tảng trung thực và nguyên bản hay không.
PV: “Like” và “share” trong “văn hóa thuật toán” dường như đang chi phối đời sống văn nghệ hơn cả phê bình truyền thống. Vậy, phê bình học thuật còn ý nghĩa gì?
TS Hà Thanh Vân: Tôi làm phê bình học thuật nhưng cũng quan tâm đến dữ liệu và mạng xã hội, và đôi khi bất ngờ trước sức lan tỏa của những bài viết dành cho đại chúng. Ngược lại, sách nghiên cứu, phê bình hàn lâm thì ít người để ý. Đúng là chỉ một cú “like” hay “share” có thể biến một tác phẩm thành “hiện tượng mạng”, bất chấp giá trị thật - biểu hiện rõ của “văn hóa thuật toán”. Nhưng, cũng phải nói, sự im lặng của giới phê bình trước những hiện tượng sách đình đám, hay sự chậm chạp so với tốc độ review trên TikTok, YouTube, Facebook... càng làm khoảng cách ấy thêm rõ.
Tôi cho rằng, nhà phê bình hôm nay phải thích ứng với môi trường dữ liệu: không chỉ viết khoa học, mà còn chia sẻ tri thức qua báo chí, podcast, video essay, mạng xã hội... Một bài phê bình phim trên Facebook của tôi có thể đạt 1,4 triệu view, trong khi sách in thường chỉ vài trăm bản - “biếu chạy chứ bán không chạy”. Tóm lại, trong một đời sống văn nghệ bị chi phối bởi dữ liệu lớn và các thuật toán, vai trò của phê bình nghiêm túc và biết thích ứng chính là giữ nhịp thở dài hạn và nền móng vững chắc để văn hóa không bị trôi tuột trong cơn bão ngắn hạn của “like” và “share”.
PV: Theo chị, những nguy cơ lớn của văn hóa, nghệ thuật Việt Nam hiện nay là gì?
TS Hà Thanh Vân: Có một số nguy cơ. Thương mại hóa khiến tác phẩm dễ biến thành sản phẩm “mì ăn liền”, mất chiều sâu tư tưởng. Văn hóa đại chúng tạo sự tiếp cận rộng, nhưng cũng làm cho công chúng thiếu kiên nhẫn với sáng tạo nghiêm túc. Nguy cơ dai dẳng nhất là sự im lặng trước những vấn đề toàn cầu. 3 yếu tố này đan xen, nuôi dưỡng lẫn nhau, tạo vòng trói buộc khiến văn hóa nghệ thuật khó bứt phá, đánh mất cơ hội cất lên tiếng nói mạnh mẽ và riêng biệt trong thời đại toàn cầu hóa.
PV: Tôi thấy có một nghịch lý là giới trẻ ngày nay sở hữu rất nhiều kênh biểu đạt cảm xúc, nhưng lại cô đơn vô cùng. Theo chị, liệu đây có phải là hệ quả tất yếu của nền giải trí ngắn hạn?
TS Hà Thanh Vân: Đúng thế. Giới trẻ hôm nay có thể livestream, viết status, đăng story, làm vlog, thậm chí tạo cả một “phiên bản ảo” của mình trên nhiều nền tảng số. Nhưng, càng biểu đạt nhiều, họ lại càng thấy thiếu những mối quan hệ sâu sắc. Những kết nối theo "khoái cảm tức thì" thường là bề nổi, nhanh đến và cũng nhanh tan, nên cô đơn là tất yếu. Nhưng, họ cũng cần phải cô đơn, để trưởng thành.
PV: Như chị nói, công chúng đang rất thiếu kiên nhẫn. Và, tôi còn có một lo ngại từ rất lâu, rằng với văn hóa lướt qua của hình ảnh ngắn trên mạng, sẽ khiến khả năng suy nghĩ độc lập và phản biện của thế hệ trẻ thui chột. Chị có chung mối lo ấy không?
TS Hà Thanh Vân: Một lo ngại rất chính đáng. Đọc sách, đặc biệt là văn chương, đòi hỏi tập trung và đối thoại nội tâm, trong khi thói quen lướt nhanh khiến não trẻ quen tiếp nhận thông tin nông. Nghiên cứu của Thorpe, Fize, Marlot chỉ ra não xử lý hình ảnh trong 1/4 giây nhưng cần 6 giây để đọc 20-25 từ, cho thấy đọc giúp phát triển tư duy logic và phản biện. UNESCO (2022) cảnh báo văn hóa đọc suy giảm, nhóm 15-24 tuổi chỉ đọc 7-8 phút/ngày nhưng dành hơn 3 giờ cho mạng xã hội. Microsoft còn ghi nhận attention span người trẻ chỉ còn 8 giây, ngắn hơn cả cá vàng. Nếu xu hướng này kéo dài, ta sẽ có một thế hệ “người tiêu dùng” thay vì “người sáng tạo”.
Short drama và vòng lặp nghiện cảm xúc nguy hiểm
PV: Gần đây phim ngắn khổ dọc (short drama) trở thành “món ăn nhanh” của giới trẻ, chỉ vài phút đã có kịch tính và cao trào. Theo chị, sự lan tỏa mạnh mẽ này phản ánh điều gì?
TS Hà Thanh Vân: Trong lý thuyết văn học đương đại, “thời gian nén” chỉ sự rút gọn quá trình tiếp nhận, còn “tính khoái cảm tức thì” gắn với nhu cầu thỏa mãn nhanh trong môi trường số. Short drama là biểu hiện rõ của cả hai: chỉ vài chục giây đến vài phút, câu chuyện bị rút gọn, nhấn mạnh cao trào, tạo cảm giác xem là hiểu ngay. Nó đem lại giải trí tức thì nhưng đồng thời làm nội dung giản lược, hời hợt, thiếu chiều sâu.
Ở Việt Nam, nhiều short drama tận dụng tình huống sốc, bi kịch hóa đời sống cá nhân, phóng đại mâu thuẫn để câu view. Khán giả cười hay khóc vài chục giây rồi lướt sang video khác, không tích lũy được giá trị thẩm mỹ hay tri thức. Nói cách khác, short drama vừa phản ánh, vừa củng cố văn hóa tiêu dùng nhanh trong đời sống số.
PV: “Dopamine culture” với short drama tốc độ nhanh và kịch tính dồn dập dường như được thiết kế để nuôi dưỡng cảm giác kích thích tức thì. Theo chị, điều này có đang làm xói mòn khả năng kiên nhẫn và thưởng thức dài hơi - vốn là cốt lõi của văn chương và nghệ thuật?
TS Hà Thanh Vân: Đúng vậy. “Dopamine culture” tạo vòng lặp kích thích - thỏa mãn - chán nản - lại tìm kích thích mới, và short drama đang nuôi dưỡng nó. Nhiều bạn trẻ dành hàng giờ xem những tình huống sốc, hài lố hoặc bi kịch hóa, chỉ giải trí tức thì nhưng làm suy giảm tập trung và năng lực thưởng thức dài hơi như tiểu thuyết, điện ảnh. Đây là hệ quả khi cảm xúc chốc lát lấn át tư duy bền vững: dẫn đến phán xét vội vàng, nông cạn, suy yếu phản biện và phẩm chất nhân văn.
Nếu thiếu định hướng, short drama sẽ củng cố một kiểu “nghiện cảm xúc” nguy hiểm, đẩy nghệ thuật trượt về giải trí rẻ tiền. Những motif tình yêu, bất công xã hội hời hợt chính là “công nghiệp hóa cảm xúc”: sản xuất công thức dễ gây rung động nhưng tái khẳng định định kiến xã hội. Khi được tiêu thụ liên tục, chúng biến bất bình đẳng thành chuẩn mực, khiến công chúng thừa nhận thay vì phản tư. Đây là tác động xã hội nguy hiểm cần cảnh báo ngay.
PV: Cái “phi lý” vốn từng là vùng khai phá nghệ thuật, từ Kafka đến Murakami. Nhưng, với short drama, sự phi lý thường bị biến thành chiêu trò gây sốc rẻ tiền. Điều đó nói gì về thị hiếu công chúng và cách vận hành của văn hóa đại chúng?
TS Hà Thanh Vân: Trong văn học, “phi lý” là thủ pháp nghệ thuật giàu sức gợi. Kafka dùng nó để phơi bày thân phận lạc lõng của con người trước quyền lực vô hình. Murakami dùng nó để mở ra thế giới siêu thực, nơi kỳ quái dẫn dắt độc giả đến những tầng nghĩa về tâm linh và bản thể. Ở đó, sự phi lý buộc người đọc phải suy tư. Ngược lại, short drama hiện nay thương mại hóa sự phi lý thành chiêu trò: nhân vật đổi cảm xúc vô cớ, tai nạn phi logic, cú “plot twist” phi thực tế chỉ để gây sốc trong vài chục giây. Đây là “phi lý thoái hóa”, không khơi gợi tư duy mà chỉ đánh vào sự hiếu kỳ tức thì. Hệ quả là công chúng dần đánh mất khả năng phân biệt giữa phi lý sáng tạo và phi lý rẻ tiền, thẩm mỹ bị hạ thấp, ngôn ngữ nghệ thuật nghèo nàn đi. Đó là thách thức lớn cho văn hóa đương đại: một thủ pháp giàu chiều sâu triết học đang bị biến thành công cụ thương mại hóa cảm xúc.
PV: Short drama như kẹo ngọt tan nhanh, còn văn chương, sân khấu, điện ảnh giống bữa tiệc chậm cần kiên nhẫn. Liệu sự thống trị của “kẹo ngọt” có khiến công chúng dần mất khẩu vị với “bữa tiệc tinh thần” đòi hỏi chiều sâu và thời gian?
TS Hà Thanh Vân: Tôi cho rằng, đây là nguy cơ hiện hữu. Short drama với đặc trưng siêu ngắn, cao trào tức thì đã lập trình lại thói quen tiếp nhận, khiến khán giả trẻ khó kiên nhẫn với tiểu thuyết, phim điện ảnh hay sân khấu. Tác động lâu dài là suy giảm năng lực thẩm mỹ, tư duy phê phán, sự đồng cảm sâu và óc phân tích. Công chúng nếu chỉ quen tiếp nhận nghệ thuật qua lát cắt ngắn ngủi sẽ khó có tầm nhìn dài hạn cả trong sáng tạo lẫn ứng xử xã hội.
Quyền được nói thẳng
PV: Là người thường xuyên lên tiếng phản biện theo truyền thống "phê bình công khai", chị có từng trải nghiệm cảm giác cô đơn, bị ghét bỏ, thậm chí bị trù dập trong môi trường học thuật và xã hội Việt Nam?
TS Hà Thanh Vân: Làm phê bình nghiêm túc và công khai ở Việt Nam, ai cũng ít nhiều trải qua cảm giác cô đơn. Phản biện không phải lúc nào cũng được nhìn nhận như xây dựng, mà dễ bị gán cho “chống đối”, “tiêu cực”, thậm chí bị “định kiến”. Tôi cũng từng chịu công kích cá nhân, bị đồng nghiệp tránh né, bị ám chỉ khó nghe trên mạng xã hội. Có lúc, ngồi với các văn nghệ sĩ, tôi còn tự giác không đăng ảnh chung, sợ họ bị ghét lây. Có nhà quản lý gọi tôi là “cường hào ác bá” trong làng phê bình, có người gán là “khát khao quyền lực”.
Nhưng, tôi nghĩ, đó là cái giá tất yếu của sự trung thực học thuật và dũng khí phê bình với đầy đủ khen chê. Nếu ai cũng chọn im lặng thì không còn tiếng nói phản biện để thúc đẩy văn hóa phát triển. Tôi chưa từng bị trù dập trực diện, nhưng rõ ràng sự ngại va chạm và nói xấu sau lưng là có thật, tạo bầu không khí khiến người phản biện dễ đơn độc. Tôi quan niệm một nhà phê bình đúng nghĩa thì luôn đơn độc, và ai cũng có “cây thập tự giá của đời mình” phải mang, không thể làm phiền người khác. Tôi nghĩ, cô đơn cũng tốt, nó giúp mình tự soi, giữ khoảng cách cần thiết để bảo toàn sự độc lập, khách quan. Văn hóa phê bình công khai không dễ đi, nhưng nếu còn tin vào vai trò trí thức và trách nhiệm cá nhân, ta phải chấp nhận bước trên con đường nhiều thử thách ấy.
PV: Không dễ, nên nhìn quanh, hình như còn mỗi Hà Thanh Vân dám nói thẳng về cái dở của văn chương thì phải?
TS Hà Thanh Vân: Chả biết đúng không nhỉ. Tôi có trải nghiệm cô đơn vì viết phê bình, nhưng tôi coi đó là điều tất nhiên. Cô đơn là động lực để tôi tiếp tục lên tiếng. Tôi luôn tin rằng, nếu mỗi người dám giữ sự trung thực và trách nhiệm trong tiếng nói phản biện, thì dù đơn độc, chúng ta vẫn góp phần làm cho đời sống học thuật và văn hóa tích cực hơn.
PV: Như chị vừa nói, giới phê bình đã né tránh những đề tài nhạy cảm, để an toàn và tiến thân, lâu dần nó trở thành luật ngầm của văn hóa cả nể và đồng thuận giả tạo trong giới trí thức. Vậy, điều gì đã giúp chị duy trì sự kiên định và bản lĩnh, phải chăng là một dạng "ethos phê bình"?
TS Hà Thanh Vân: Với tôi, “ethos phê bình” là hệ giá trị cốt lõi của người làm học thuật. Tôi không viết để “tạo sóng” hay gây chú ý, mà để bảo vệ sự trung thực tri thức, giá trị thực của văn chương và uy tín bản thân. Nếu thỏa hiệp, tôi sẽ đánh mất lý do chọn con đường này. Tôi biết, trong môi trường trí thức Việt Nam còn nhiều “luật ngầm” như cả nể, né tránh, đồng thuận giả tạo, dễ khiến người phản biện bị cô lập. Nhưng, sự thật và chuẩn mực văn hóa phải được đặt cao hơn lợi ích ngắn hạn.
Với tôi, “ethos phê bình” chính là sự trung thực học thuật, nói đúng sự thật trên nền tảng lý thuyết và chứng cứ; là trách nhiệm xã hội vì phê bình không chỉ khen chê mà còn định hướng thị hiếu công chúng; là tinh thần độc lập, không bị chi phối bởi lợi ích nhóm; và là tinh thần nhân văn, phê bình tác phẩm chứ không công kích cá nhân, luôn hướng đến đối thoại và xây dựng. Sức mạnh để giữ vững những nguyên tắc đó đến từ nền giáo dục tôi được hưởng, từ những tình cảm gắn bó trong đời sống, và đặc biệt từ độc giả -những người tìm thấy nơi tôi một tiếng nói khác ngoài sự tán dương. Nhờ họ, tôi học được cách phê bình “kiên định mà không cực đoan”: thẳng thắn, có luận cứ, nhưng vẫn giữ tinh thần đóng góp và xây dựng.
PV: Chưa từng thấy chị chia sẻ về đời riêng trên mạng. Gia đình và tình yêu có phải là hậu phương của Hà Thanh Vân không?
TS Hà Thanh Vân: Tôi từng châm biếm tuyên bố: “Từ xưa đến nay tôi chưa từng thấy có con NGƯỜI nào chửi tôi vì tôi viết phê bình” hay “Tôi không trả lời những ý kiến phản biện vì tôi tôn trọng... quyền được ngu của con người”. Những "tuyên ngôn ấy" mang về cho tôi vô số kẻ thù. Nên, tôi nghĩ, tôi cần một “tình yêu thương” đủ lớn để tiếp tục viết. Với tôi, gia đình và tình thương của nhiều người chính là “hậu phương tinh thần” để đi đường dài trong viết lách và phản biện - vốn luôn nhiều thử thách, dễ cô đơn và bị phản đối.
Trong những lúc ấy, gia đình là điểm tựa để cân bằng, hồi phục, nơi tôi được là một người phụ nữ bình thường, đôi khi trẻ con, phù phiếm, mau nước mắt. Nếu phê bình cho tôi sức mạnh phát ngôn, thì tình thương cho tôi lý do để tiếp tục hành trình.
PV: Xin cảm ơn tiến sĩ!