“Thành tựu 30 năm quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ không phải tự nhiên mà có...”
Lịch sử quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ là quá trình hiếm có, là hình mẫu trong quan hệ quốc tế về hàn gắn và xây dựng quan hệ sau chiến tranh. Tròn 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ (1995-2025), phóng viên Chuyên đề ANTG Giữa tháng - Cuối tháng đã có cuộc trò chuyện cùng ông Phạm Quang Vinh - nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Hoa Kỳ (11/2014 - 6/2018).
- PV: “Hôm nay, tôi tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam”, ngày 11/7/1995, tại Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã tuyên bố như vậy. Đó là một dấu mốc mang tính bước ngoặt, là bản lề làm thay đổi hoàn toàn mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Thời điểm đó, ông đang hoạt động ở mảng nào của lĩnh vực ngoại giao?
- Ông Phạm Quang Vinh: Lúc đầu tôi chưa hoạt động về mảng ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ nhưng đã có 2 nhiệm kỳ ở Phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc (LHQ). Điều đặc biệt là cả hai nhiệm kỳ đều ở New York, nhưng ở hai thời điểm trước và sau dấu mốc năm 1995. Nhiệm kỳ đầu từ 1987-1990, quan hệ hai nước lúc đó còn khó khăn lắm, Mỹ lúc đó vẫn đang bao vây, cấm vận Việt Nam. Cho nên cán bộ ngoại giao ở phái đoàn Việt Nam bị hạn chế đi lại ở Mỹ, chỉ được di chuyển trong vòng 25 dặm (khoảng 40 km) ở đảo Manhattan nơi đặt trụ sở LHQ, không được đi ra ngoài, đi vượt quá là phải xin phép.

Năm 1995, khi Mỹ và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao, tôi đang làm việc ở Vụ Các tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao. Và, ngay năm sau, năm 1996, tôi có nhiệm kỳ thứ hai tại Phái đoàn thường trực LHQ đến năm 1999. Lúc này, sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ thì đi lại thoải mái. Cuối năm 2014, tôi sang đảm nhận chức vụ Đại sứ Việt Nam tại Mỹ thì trước đó hai nước đã xác lập quan hệ đối tác toàn diện vào năm 2013.
- PV: Một sự ngẫu nhiên nhưng lại là mối duyên song trùng khi ông trải qua các vị trí công tác khác nhau nhưng đều gắn bó với nước Mỹ...
- Ông Phạm Quang Vinh: Có lẽ ngay từ khi tôi “rẽ ngang” đi học về ngành ngoại giao thì đã là một mối duyên rồi. Năm 1975, tôi tốt nghiệp phổ thông và đỗ Đại học Bách khoa Hà Nội. Nếu không có gì thay đổi thì có lẽ tôi sẽ trở thành một kỹ sư. Đó là năm hòa bình lập lại, thống nhất đất nước, cơ hội đối ngoại được mở ra, Bộ Ngoại giao có chủ trương tuyển chọn sinh viên từ một số trường đại học để đào tạo nhân sự cho công tác đối ngoại trong giai đoạn mới. Khi được Bộ Ngoại giao chọn đi học, tôi trở thành sinh viên ngành ngoại giao. Mối duyên đầu tiên chính là từ lúc đó.
Ra trường, tôi về Bộ Ngoại giao, bắt đầu làm chuyên viên tại Vụ Các vấn đề chung (nay là Vụ Các tổ chức quốc tế) từ năm 1980. Chuyến công tác đầu tiên, năm 1983, của một cán bộ ngoại giao trẻ là tôi khi ấy là đi Mỹ. Và, nhiệm kỳ cuối cùng tôi đi công tác với tư cách là Đại sứ Việt Nam cũng ở Mỹ, thủ đô Washington DC, từ năm 2014 đến 2018.
- PV: Ông giữ trọng trách là Đại sứ thứ 5 của Việt Nam tại Mỹ từ tháng 11/2014. Làm công tác ngoại giao ở một cường quốc hàng đầu thế giới, chắc có không ít áp lực...
- Ông Phạm Quang Vinh: Công tác đối ngoại cho tôi 2 điều quý giá, đó là sự háo hức, vinh dự được nhận nhiệm vụ nhưng đồng thời cũng là sức ép. Tháng 11/2014, khi tôi bắt đầu nhiệm kỳ Đại sứ ở Mỹ thì hai nước vừa thiết lập quan hệ đối tác toàn diện được một năm. Nếu ở thời điểm 1995, khi bắt đầu bình thường hóa quan hệ, kim ngạch thương mại hai nước chưa đầy 450 triệu USD. Đến năm 2013 đạt khoảng hơn 30 tỷ USD, tăng hơn 70 lần. Một năm sau đó, tôi nhận nhiệm vụ. Vấn đề đặt ra là kinh tế - thương mại song phương tăng mạnh, đà quan hệ Việt - Mỹ đang tiến triển như vậy, liệu nhiệm kỳ của tôi có tiếp tục thúc đẩy được không, đấy là thách thức không nhỏ.

Một điều nữa là khi tôi “đi sứ” cuối năm 2014 thì sang 2015 là kỉ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Lúc ấy tôi nghĩ, mốc 20 năm thì phải có hoạt động gì thiết thực, tạo được dấu ấn hợp tác mang tính biểu tượng cao. Nếu thiết lập được chuyến thăm của đồng chí Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tới Mỹ thì sẽ rất tuyệt vời.
Nhờ sự chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền, sự trao đổi của cơ quan ngoại giao giữa hai bên và không thể thiếu sự hỗ trợ của bạn bè ở Mỹ, tháng 7/2015, chuyến thăm chính thức của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam sang Hợp chúng quốc Hoa Kỳ theo lời mời của chính quyền Tổng thống Barack Obama đã diễn ra.
- PV: Đó là chuyến thăm mang tính bước ngoặt, khi lần đầu tiên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam có chuyến thăm và gặp gỡ người đứng đầu nước Mỹ...
- Ông Phạm Quang Vinh: Việc đạt được nội dung về chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là minh chứng rõ nhất, cao nhất về việc tôn trọng hệ thống chính trị của nhau. Cuộc hội đàm giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Barack Obama ban đầu dự tính diễn ra trong vòng từ 45 phút đến 1 tiếng. Nhưng, khi hai người đứng đầu của hai thể chế vốn trước đây là đối thủ, sau trở thành đối tác; trước là kẻ thù, sau là bạn, đã kéo dài đến 90 phút. Phải nói thêm rằng, trong ngoại giao cấp cao ít khi có sự “quá giờ” như thế. Rõ ràng là hai nhà lãnh đạo muốn trao đổi nhiều điều với nhau. Nội dung hội đàm là sự đối thoại chân thành, thẳng thắn về quá khứ, hiện tại, tương lai, vẫn có ý nghĩa đến ngày nay.
Điểm thứ hai, sau cuộc gặp, hai bên ra được tuyên bố tầm nhìn quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, nhấn mạnh những điều đã đạt được trong khuôn khổ hợp tác của đối tác toàn diện, khẳng định khuôn khổ quan hệ lâu dài, ổn định, hợp tác hai bên cùng có lợi, nhấn mạnh các nguyên tắc chỉ đạo thông lệ trong đó có tôn trọng thể chế chính trị của nhau.
Để “thu xếp” được chuyến thăm lịch sử này không chỉ là câu chuyện chính trị mà vượt qua cả nguyên tắc lễ tân và những khác biệt về hai hệ thống chính trị. Là người trực tiếp tham gia vào việc chuẩn bị và tổ chức chuyến thăm, phối hợp chặt chẽ với phía Hoa Kỳ để giải quyết những vấn đề về lễ tân, văn kiện và các vấn đề khác biệt, có lúc tôi đã phá vỡ quy tắc ngoại giao truyền thống trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhằm đảm bảo chuyến thăm diễn ra suôn sẻ.
Trong chuyến thăm đó, sáng hôm sau có cuộc gặp của Tổng Bí thư với Tổng thống Mỹ thì chiều hôm trước văn kiện giữa hai bên vẫn chưa được hoàn tất. Tôi gọi điện cho trợ lý Tổng thống - người trực tiếp phụ trách văn kiện làm việc, xin gặp để trao đổi thì ông ấy đồng ý ngay. 21h30 chúng tôi gặp nhau, rà soát lại toàn bộ các điểm còn chưa thống nhất, đến 23h mới xong. Điều tôi rất bất ngờ là ngài trợ lý Tổng thống nói với tôi rằng bất cứ lúc nào trong đêm hôm ấy, kể cả nửa đêm, mà tôi cần trao đổi thì cứ gọi cho ông ấy qua số điện thoại cá nhân. Đó là điều hiếm khi xảy ra, vì theo quy tắc thông thường chúng tôi phải liên hệ công việc qua số điện thoại cố định hoặc email. Đêm đó, lúc 1h sáng, vì vẫn có một vài nội dung cần thống nhất nên tôi phá lệ, gọi điện cho ông ấy. Cuộc gọi sát nút ấy đã giúp chúng tôi giải quyết được những phần việc cuối cùng trước khi cuộc gặp mặt trao đổi giữa Tổng Bí thư và Tổng thống Mỹ diễn ra vào sáng hôm sau.
- PV: Vượt qua những áp lực, ông đã có một nhiệm kỳ đại sứ đầy dấu ấn...
- Ông Phạm Quang Vinh: 3 năm rưỡi làm đại sứ ở Mỹ, tôi rất mừng khi cả Tổng thống Barack Obama và Tổng thống Donald Trump đều sang thăm Việt Nam, đồng chí Tổng Bí thư và Thủ tướng cùng nhiều đoàn cấp cao của Việt Nam cũng đã sang thăm Mỹ.
Trong lĩnh vực thương mại, khi tôi bắt đầu nhiệm kỳ vào năm 2014, kim ngạch thương mại hai chiều của 2 nước đạt hơn 36 tỷ USD; khi tôi rời nhiệm sở vào năm 2018, con số này là hơn 60 tỷ USD. Điều đó cho thấy hai nền kinh tế vẫn tiếp tục gia tăng hợp tác, bổ sung cho nhau. Năng lực kinh tế của Việt Nam được cải thiện và phát triển, nên hàng hóa trong nước đủ sức cạnh tranh vào thị trường Mỹ. Môi trường hợp tác chính trị giữa hai nước ngày càng được tăng cường, tạo thuận lợi cho hợp tác kinh tế.
- PV: Ở Washington DC - một trong những nơi có nhiều cơ quan đại diện ngoại giao nhất trên thế giới, cả song phương và đa phương, ông đã tạo “lối đi riêng” như thế nào để đạt được hiệu quả?
- Ông Phạm Quang Vinh: Nhiệm kỳ của tôi được chứng kiến sự chuyển giao giữa hai đời tổng thống, trong đó 2 năm với Tổng thống Barack Obama, 1 năm rưỡi với Tổng thống Donald Trump nhiệm kỳ 1. Thời điểm tháng 12/2016, ông Donald Trump là tổng thống đắc cử chứ chưa nhậm chức. Trước một vị tổng thống đầy khác biệt như ông Donald Trump, nhiệm vụ đặt ra cho tôi là phải thể hiện được vai trò cầu nối giữa chính quyền ở Việt Nam với chính quyền mới của Mỹ như thế nào.
Nhờ vào sự hỗ trợ của bạn bè, tôi đã kết nối được cuộc điện đàm giữa Thủ tướng Việt Nam và Tổng thống Mỹ. Lúc đó Thủ tướng Việt Nam đã điện đàm cởi mở với Tổng thống Donald Trump. Ông Trump khẳng định hai nước tiếp tục thúc đẩy những lĩnh vực hợp tác và coi trọng quan hệ Việt Nam - Mỹ. Việc kết nối với Tổng thống Donald Trump ngay từ sớm là một bước đi đúng đắn. Sau đó, lãnh đạo Việt Nam là vị lãnh đạo đầu tiên ở Đông Nam Á, và là một trong số những lãnh đạo đầu tiên trên thế giới đến thăm Hoa Kỳ trong thời ông Donald Trump vào tháng 5/2017. Để làm nên thành công đó, bạn bè đã giúp tôi rất nhiều, tôi phải cảm ơn họ.

- PV: “Câu chuyện bạn bè” như ông nói có lẽ chính là một kênh giao tiếp không chính thức nhưng mang lại hiệu quả trong công việc...
- Ông Phạm Quang Vinh: Trước khi là Đại sứ Mỹ, từ các nhiệm vụ công tác trước đó, nhất là làm về ASEAN, tôi đã có mối quan hệ với nhiều bạn bè Mỹ ở Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Thương mại, Hội đồng An ninh quốc gia, Văn phòng Tổng thống Mỹ,... Đến khi nhận nhiệm kỳ đại sứ, tôi thường mời họ ghé thăm “ngôi nhà Việt Nam” (Vietnam house) để "hàn huyên" và cùng ăn các món ăn Việt Nam giản dị. Những buổi gặp gỡ đó không chỉ là dịp gắn kết cá nhân mà còn là cơ hội quý giá để cùng trao đổi thông tin đa chiều với nhiều quan chức từ các bộ, ngành khác nhau của Mỹ một cách nhanh chóng, điều mà các cuộc gặp chính thức khó có thể thực hiện.
- PV: Tôi rất muốn nghe ông kể về “ngôi nhà Việt Nam” ở Mỹ.
- Ông Phạm Quang Vinh: Ở Washington DC, ngoài văn phòng của đại sứ quán, còn có nhà riêng của đại sứ là nơi tiếp khách trang trọng và thân mật. Tôi còn nhớ câu chuyện liên quan đến ngôi nhà này. Đó là năm 1994, Mỹ bỏ cấm vận nhưng chưa thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đi dự Đại Hội đồng LHQ đã có chuyến thăm Washington DC. Tôi lúc đó làm ở Vụ Tổ chức quốc tế được đi tháp tùng. Phó Thủ tướng muốn đến xem ngôi nhà mà Việt Nam sẽ tiếp quản để làm nơi ở của đại sứ. Chìa khóa của ngôi nhà đó do Phòng Đông Dương, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ quản lý. Họ đến mở cửa cho chúng tôi vào xem, sau đó họ khóa cửa và cầm chìa khóa. 20 năm sau, năm 2014, quay trở lại thì tôi là người cầm chìa khóa và trở thành chủ nhân ngôi nhà đó.
- PV: Câu chuyện “khách đến chơi nhà” thật thú vị, ông có thể chia sẻ với độc giả?
- Ông Phạm Quang Vinh: Trong không gian “ngôi nhà Việt Nam”, tranh ảnh, đồ dùng trang trí đều mang từ Việt Nam sang, đậm dấu ấn quê hương. Bất cứ vị khách nào được mời đến ngôi nhà đó đều cảm nhận được sự gần gũi và trân trọng. Khi kết thúc ngày làm việc, tôi thường nói với bạn bè người Mỹ rằng, trên đường anh đi từ công sở về nhà có một điểm dừng chân là "Vietnam house", là nhà riêng của Đại sứ Việt Nam. Anh có thể dừng chân uống một cốc bia, một ly whisky hay hút một điếu cigar, nhấm nháp chút thức ăn nhẹ.
Chúng tôi trò chuyện vui vẻ trong khoảng thời gian gần một tiếng đồng hồ trước khi họ kịp về ăn tối với gia đình, nhưng luôn đan cài những thông tin để đóng góp tốt hơn cho quan hệ hai nước. Muốn thế thì chủ nhà là tôi phải tìm hiểu nhu cầu thông tin từ phía bạn và chuẩn bị thông tin để chia sẻ. Tôi có thể mời cùng lúc bạn bè ở nhiều cơ quan khác nhau đến trò chuyện trao đổi. Nhiều cuộc trò chuyện rất hiệu quả, thay cho cả tuần trao đổi với nhau tại các phòng làm việc chính thức.
Mỗi đại sứ đều cố gắng hết sức để thúc đẩy quan hệ giữa hai nước, nâng cao vai trò, vị trí cũng như lợi ích của Việt Nam, nhưng mỗi người lại có một phong cách khác nhau. Tôi chơi cởi mở và nói chuyện thẳng thắn, nên bạn bè đến với tôi thường xuyên hơn. Phong cách của người Mỹ là nói thẳng, nên khi mình nói thẳng thì họ không tự ái. Nhưng, nói thẳng thôi chưa đủ, mà điều quan trọng nhất là mình phải phát đi những tín hiệu mang tính giải pháp dung hòa lợi ích của hai bên.
- PV: Năm 2025 đánh dấu mốc đặc biệt có ý nghĩa trong quan hệ hai nước, mở ra giai đoạn mới hợp tác sâu rộng, thực chất và hiệu quả hơn nữa, vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Ông đánh giá như thế nào về tiến trình 30 năm quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ?
- Ông Phạm Quang Vinh: Nhìn lại 30 năm quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ có thể nhấn mạnh những điểm cốt lõi. Thứ nhất, 30 năm qua, cả hai nước đã tăng cường hiểu biết, xây dựng lòng tin. Có lòng tin mới vượt qua được sự khác biệt và khó khăn, nhân lên những tương đồng và thúc đẩy hợp tác. Xử lý vấn đề khắc phục hậu quả chiến tranh và vấn đề nhân đạo chính là những bước đi đầu tiên để xây dựng lòng tin. Phía Mỹ trao trả cho Việt Nam hồ sơ chứng tích chiến tranh, Việt Nam cũng tích cực hợp tác để tìm kiếm và xác định người Mỹ mất tích. Điều đó phản ánh sự chín muồi của lòng tin, lợi ích lâu dài và phù hợp với nguyện vọng nhân dân hai nước. Ngay từ ngày đầu thiết lập quan hệ ngoại giao, những cựu binh của hai phía đã bắt tay với nhau. Hai bên, đặc biệt là Việt Nam, coi vấn đề tìm kiếm người Mỹ mất tích là vấn đề nhân đạo để có thể hợp tác một cách hiệu quả với Mỹ. Chính những nỗ lực thực sự hợp tác đã giảm đi nỗi đau trong lòng nước Mỹ, trong lòng Việt Nam...
Và, sau này, chính những nguyên tắc tôn trọng thể chế chính trị của nhau, nỗ lực vượt qua sự khác biệt là nền tảng xây dựng lòng tin khi hai nước còn nhiều khác biệt về trình độ phát triển, chính trị xã hội. Đến bây giờ, hai bên vẫn có rất nhiều khác biệt. Nếu không vun đắp, củng cố lòng tin thì quan hệ hai nước không thể tiến xa như hiện tại.

Thứ hai, đừng chỉ nghĩ rằng con đường đi của quan hệ hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ luôn bằng phẳng, luôn có những lợi ích song trùng. Mỗi chặng phát triển trong quan hệ hai nước luôn có những khác biệt và có những vấn đề trở ngại. Quan trọng nhất là hai bên có những cách thức, cơ chế, quyết tâm đối thoại để vượt qua những khác biệt, trở ngại, từ đó làm sâu sắc hơn quan hệ hai nước.
Thứ ba, trong chặng đường đi lên thì sự đan xen lợi ích hai bên càng tăng lên. Nếu không nhân lên được lợi ích song trùng và tăng điểm đồng thuận thì khó có thể cùng nhau phát triển. Nước Mỹ xa Việt Nam nửa vòng trái đất, vị trí địa chiến lược cũng cần nhau, kinh tế cũng cần nhau, hợp tác khu vực và thế giới cũng cần nhau. Đặc biệt, trong lĩnh vực hợp tác kinh tế thì đan xen, bổ sung cho nhau. Càng phát triển mối quan hệ thì hai bên càng có lợi cả về kinh tế, chính trị, chiến lược an ninh, trong đó kinh tế là một điểm sáng trụ cột. Thế mới có câu chuyện năm 1995, kim ngạch thương mại hai nước đạt gần 450 triệu USD, 30 năm sau đã là 150 tỷ USD, tăng hơn 300 lần.
Thứ tư, 30 năm qua, song song với quá trình phát triển quan hệ hai nước là quá trình đổi mới và cải cách ở Việt Nam. Quá trình này tạo thế cho Việt Nam hội nhập và quan hệ với thế giới một cách sâu rộng hơn, đan xen nhiều lợi ích hơn. Nếu Việt Nam không đổi mới và hội nhập thành công như vậy thì có một điều rất rõ có thể xảy ra. Đó là vị trí địa chiến lược của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Mỹ và trong chiến lược của khu vực sẽ không cao như bây giờ. Đổi mới, hội nhập ở Việt Nam làm cho nền kinh tế trong nước phát triển năng động, ngày càng chất lượng. Ta có sản phẩm để xuất sang Mỹ, buôn bán với Mỹ; ngược lại, có thị trường để kéo các nhà đầu tư của Mỹ đến đầu tư. Do đó, sự đổi mới tự thân của đất nước chúng ta làm tăng sức hấp dẫn, vai trò vị trí của Việt Nam trong mối quan hệ với Mỹ.
- PV: Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện thú vị này!
* Ảnh trong bài: Nguyễn Thắng và ảnh tư liệu của Đại sứ Phạm Quang Vinh.