Nhà nghiên cứu di sản văn hóa Trần Lâm Biền:

“Chúng ta chỉ là mảnh ván nhỏ trên cây cầu nối quá khứ vào tương lai”

Thứ Sáu, 28/11/2025, 09:33

Ở tuổi 87, nhà nghiên cứu văn hóa Trần Lâm Biền vẫn đến cơ quan làm việc mỗi ngày. Chầm chậm từng bước nơi bậc cầu thang, phòng làm việc của ông trên tầng 2 của khu nhà kiến trúc Pháp thuộc Cục Di sản, trên phố Ngô Quyền, Hà Nội. Căn phòng nhỏ, một nửa là những giá để tài liệu cao ngất, một nửa dành cho ông. Trên bàn, quyển sách ông đang đọc dở, trang bản thảo ông đang chấp bút, nét chữ vẫn nghiêm ngắn, rắn rỏi.

Câu chuyện với ông bắt đầu về hồ Gươm, địa danh "trung tâm của trung tâm", biểu tượng văn hóa và lịch sử của Hà Nội đang bước vào giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ với dự án mở rộng không gian công cộng.

8-1.jpg -0

- PV: Hồ Gươm trong lòng người Hà Nội nói riêng, người dân cả nước nói chung luôn có một vị trí đặc biệt, là một mạch nguồn cảm xúc thiêng liêng về đất nước, quê hương. Hồ Gươm đang trải qua giai đoạn "bước ngoặt" khi Hà Nội triển khai thực hiện cải tạo, mở rộng không gian quanh hồ, di dời hàng loạt công trình và các hộ dân ven hồ. Trong tâm thế người Hà Nội, có một sự háo hức, mong ngóng không hề nhẹ muốn được ngắm diện mạo mới của hồ Gươm sắp tới sẽ ra sao. Và, nhiều người cũng muốn hình dung rõ hơn chút nữa về một hồ Gươm của thời dĩ vãng, thưa ông.

- Nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền: Thời xa xưa, hồ Gươm có tên là Lục Thủy, nằm trong một vùng mênh mông nước. Nằm cạnh hồ còn có hồ nước nhỏ hơn là hồ Thái Cực (hay còn gọi là hồ Hàng Đào) nay đã bị lấp đi. Hồ này từng thông với hồ Gươm qua một con lạch và tên gọi "phố Cầu Gỗ" ngày nay bắt nguồn từ chiếc cầu gỗ bắc qua con lạch đó.

Vì là vùng trũng nên từ xưa, quanh hồ Gươm, người dân phải đối phó với lũ lụt. Thế nên mới có huyền tích về Huyền Thiên Trấn Vũ tiêu diệt hồ tinh, quy tinh, xà tinh (cáo, rùa, rắn) dâng nước tạo lũ lụt nghiêm trọng gây hại cho dân. Đền Quán Thánh nằm ở ngã tư đường Thanh Niên và đường Quán Thánh bây giờ, cách hồ Gươm một quãng. Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm, có rắn quấn, trên lưng một con rùa. Hình tượng này như biểu hiện việc thần linh cũng phải hòa với rùa, rắn, biến chúng thành trợ thủ cho mình trong tinh thần sống chung với lũ lụt.

- PV: Theo thời gian, hồ Gươm đã chứng kiến nhiều biến đổi về diện mạo, đặc biệt dưới thời Pháp thuộc và quá trình đô thị hóa mạnh mẽ. Ông có thể chia sẻ rõ hơn về điều này?

- Nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền: Sau khi chiếm Hà Nội, vào cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp đẩy mạnh quy hoạch. Ở khu vực trung tâm, họ xây một khu phố riêng, người dân thời bấy giờ gọi là phố Tây. Hồ Gươm trở thành nơi phân cách khu phố Tây và 36 phố phường ở phía Bắc. Pháp mở rộng đường quanh hồ Gươm. Đó là lý do đền Bà Kiệu ở mạn Đông Bắc hồ được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng, là một di tích hoàn chỉnh nhưng do việc mở đường nên đã tách làm 2 phần: Nghi môn ở sát bờ hồ, còn đền thờ lại nằm ở phía bên kia đường Đinh Tiên Hoàng bây giờ. Đây là ngôi đền thờ 3 vị nữ thần là Liễu Hạnh công chúa, Đệ nhị Ngọc nữ và Đệ tam Ngọc Nữ.

Ngoài ra, bên bờ phía Đông hồ Gươm vẫn còn tháp Hòa Phong. Nhiều người không hiểu vì sao lại có tháp này ở ven hồ. Là vì trước đây tháp này nằm trước cổng chùa Báo Ân - ngôi chùa bề thế nằm ở ven hồ. Hồ Gươm khi ấy nổi tiếng với 3 ngọn tháp là tháp Rùa, tháp Bút và tháp Hòa Phong. Tuy nhiên, chùa đã bị dỡ bỏ năm 1898 để xây Bưu điện Hà Nội, chỉ có tháp Hòa Phong còn sót lại.

8-2.jpg -0
Nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền trò chuyện cùng phóng viên Chuyên đề ANTG Giữa tháng - Cuối tháng.

- PV: Hồ Gươm đẹp không chỉ bởi nước hồ xanh, mà những công trình gắn với hồ cũng mang nhiều dấu ấn.

- Nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền: Trong tâm thức của người dân bao đời, những công trình gắn với hồ Gươm đã quen mắt, dần thành biểu tượng văn hóa, tạo nên vẻ đẹp tổng thể. Từ màu nước xanh đến cây cỏ la đà ven hồ cũng khiến cho hồ có vẻ đẹp riêng. Tháp Rùa được xây dựng trong khoảng từ giữa năm 1884 đến tháng 4/1886. Chuyện xưa truyền lại, có ông tên là Nguyễn Kim - một nhà tư bản sống ở phố Hàng Khay vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã cho dựng tháp 3 tầng ở đảo nhỏ trên hồ. Dần dần, tháp Rùa là sự kết hợp văn hóa Đông - Tây với các lỗ cửa kiểu gô-tích. Nó có một vẻ đẹp riêng tạo dấu ấn gắn với hồ Gươm.

Đền Ngọc Sơn nằm ở phía Bắc hồ, xưa có tên là Tượng Nhĩ (tai voi). Khi dời đô ra Thăng Long, Vua Lý Thái Tổ đặt tên là Ngọc Tượng. Đến đời Trần thì được đổi tên là Ngọc Sơn. Về sau, một nhà từ thiện tên là Tín Trai đã lập ra đền Ngọc Sơn trên nền cung Thụy Khánh cũ (bị Lê Chiêu Thống cho người đốt năm 1787 để trả thù các chúa Trịnh).

Ở một vị trí rất đẹp, đền Ngọc Sơn là điểm nhấn của hồ Gươm. Vào đầu thế kỷ thứ XX, nhất là năm 1919, khi Pháp bỏ thi Nho học, các nhà Nho bất đắc chí đến đây sinh hoạt Nho thuật, mang nỗi nhớ tiếc về thời một đi không trở lại. Họ thờ thần Nho học, thần văn chương. Cầu Thê Húc được xây dựng quay về hướng Đông để đón ánh nắng ban mai. Ánh sáng mặt trời đối với người Việt làm nông nghiệp chính là sinh khí, đưa đến nguồn năng lượng tối thượng cho cây cối và vật nuôi. Trong quá trình ấy, nhân dân ta lặng lẽ đem tượng Trần Hưng Đạo vào thờ trong hậu cung. Mà vị thần được thờ trong hậu cung bao giờ cũng chiếm lĩnh một vị trí đặc biệt trong ngôi đền.

Quanh hồ Gươm còn có đài Nghiên - tháp Bút ở mạn Đông Bắc được xây dựng từ năm 1865; tượng thờ vua Lê ở bờ phía Tây; nhà Thủy Tạ cũng là điểm nhấn kiến trúc quan trọng. 

Trước đây, tôi còn nhớ ngay gần tòa nhà “Hàm cá mập” là nơi giao nhau của nhiều tuyến xe điện tỏa ra các cửa ô. Xe điện Bờ Hồ do người Pháp xây dựng từ năm 1899 đến 1943 mới xong. Tiếng leng leng, cảnh nhộn nhịp tại ga xe điện diễn ra từ 5 giờ sáng tới 11 giờ đêm đã trở thành một phần kí ức đậm nét của nhiều người dân Hà Nội. Năm 1990 thì xe điện không còn hoạt động nữa, đường ray bị bóc đi.

Ngoài những dấu ấn ấy, càng về sau này quanh hồ càng có nhiều công trình khác. Trong thế đối sánh, các công trình quanh hồ càng dày đặc thì hồ Gươm càng có vẻ chật hẹp, cảm giác bị "teo" lại như cái ao. Đã đến lúc phải trả lại cho hồ Gươm không gian rộng thoáng, để cho hồ còn "thở".

8-3.jpg -0
Tháp Hòa Phong thế kỉ XIX. Tranh khắc dựa trên ảnh tư liệu được thực hiện năm 1884 (Ảnh tư liệu).

- PV: Cùng với việc nghiên cứu quy hoạch, cải tạo khu vực phía Đông hồ Gươm thành khu quảng trường - công viên đặc biệt, TP Hà Nội cũng lập đồ án thiết kế đô thị riêng khu vực Bắc hồ Gươm, khu Nam phố cổ, chủ đạo là quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Việc phá bỏ tòa nhà "Hàm cá mập", một số hạng mục của nhà Thủy Tạ là để triển khai kế hoạch này. Ý kiến của ông như thế nào về chủ trương này?

- Nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền: Việc phá bỏ một số hạng mục quanh hồ Gươm, chuyển đổi chức năng các công sở, nhà dân ra khỏi khu vực hồ để mở rộng không gian là một chủ trương đúng đắn. Vì trong tổng thể hiện tại có nhiều cái không hợp. Hiện nay, Hà Nội đang rất thiếu những không gian công cộng rộng rãi, đáp ứng đủ tiêu chí về mặt nước, cây xanh, khu thương mại, dịch vụ giải trí; thiếu những quảng trường đúng nghĩa, tức là không bị xung đột với giao thông và hoạt động hằng ngày của người dân. Vì vậy, chủ trương quy hoạch, cải tạo, tái thiết khu vực quanh hồ Gươm là cần thiết. Thực chất, đây là tôn tạo cho một "Di tích quốc gia đặc biệt" là hồ Gươm, đã được xếp hạng từ năm 2013.

Tuy nhiên, việc mở rộng không gian hồ Gươm cũng không đơn giản. Xây dựng, mở rộng như thế nào cho hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, giữ được bản sắc riêng của không gian hồ Gươm trong quá trình phát triển thực sự là một thách thức. Nếu chỉ tập trung vào việc mở rộng mà không có chiến lược nội dung phù hợp, khu vực này có nguy cơ trở thành một không gian nặng về thương mại hóa, mất đi giá trị văn hóa cốt lõi. Vì vậy, phát triển công nghiệp văn hóa tại đây cần đảm bảo tôn lên giá trị văn hóa, lịch sử vốn có, đồng thời đáp ứng nhu cầu của một đô thị hiện đại.

Muốn mở rộng đúng hướng thì phải hiểu rõ giá trị, quá trình tồn tại của hồ Gươm trong chiều dài lịch sử, để không phá vỡ không gian văn hóa, lịch sử quan trọng đặc biệt của Thủ đô Hà Nội và cả nước.

- PV: Phải hiểu rõ lịch sử thì mới có ứng xử đúng ở hiện tại, thưa ông?

- Nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền: Hà Nội là thủ đô của cả nước, khu vực Hoàn Kiếm là trung tâm của Thủ đô, hồ Gươm là trung tâm của Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn là trung tâm của hồ. Như vậy, hồ Gươm và đền là trung tâm của trung tâm. Do đó, phải ứng xử ra sao với địa danh này? Người xưa đã nói: Bất kể một dân tộc nào, muốn biết mình là ai trong hiện tại và muốn bước vào tương lai một cách chắc chắn thì bắt buộc phải ngoái nhìn quá khứ.

Tất cả chúng ta, nhất là đối với những người được giao trách nhiệm quản lý văn hóa truyền thống, phải thấy rằng chúng ta chỉ là mảnh ván nhỏ trên cây cầu nối quá khứ vào tương lai mà thôi. Nên nhớ chúng ta chỉ là cầu nối, chứ không có quyền quyết định, định hình bộ mặt của quá khứ. Bộ mặt của thời nào lệ thuộc vào bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của thời ấy. Cho nên, gìn giữ vẻ đẹp quá khứ trước hết để khẳng định chúng ta là ai. Và, cũng để mai sau, con cháu chúng ta hiểu được chúng là ai. Khi không xác định được mình là ai thì còn biết bảo vệ, gìn giữ cái gì đây?

Làm công tác bảo tồn di sản văn hóa là để giữ cái đẹp, giá trị truyền thống của ông cha. Đó vừa là trách nhiệm với quá khứ và tương lai, vừa đậm tinh thần yêu nước.

- PV: Trong bối cảnh hiện đại, để bảo vệ di sản thì không chỉ chú trọng vào công tác bảo tồn, tu bổ mà việc nghiên cứu và nhận diện giá trị di sản cũng rất quan trọng. Quan điểm của ông thế nào về vấn đề này?

- Nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền: Người ta thường nghĩ đơn giản là bảo vệ di sản văn hóa thì dựa vào "khảo cổ học di sản văn hóa" để làm "bệ đỡ'. Nếu thế thì khi tu bổ, sửa chữa, chỉ cần những người thợ lành nghề làm thật giống như cũ là được. Gần đây, các nhà nghiên cứu di sản văn hóa còn quan tâm tới "bệ đỡ" thứ hai, là "dân tộc học di sản văn hóa". Nếu như khảo cổ học di sản văn hóa chỉ gắn với cái hiển hiện mà giác quan nhận thấy được, thì dân tộc học di sản văn hóa đi sâu hơn, thấy được ý nghĩa tầng sâu của di sản. Ta sẽ biết được rằng kiến trúc này có ý nghĩa sâu xa liên quan tới di tích như thế nào. Cái hiển thị gắn với cái bình thường, là thể xác; còn ý nghĩa tầng sâu của di sản mới gắn với trí tuệ, là linh hồn. Nếu biết được như thế thì sẽ biết tu bổ, còn nếu không gắn với dân tộc học di sản văn hóa thì dễ làm không đúng. Bởi, những người thợ luôn có cái chủ quan, dễ làm sai.

Một điều nữa cần nhấn mạnh, bảo tồn là giữ được tinh hoa tổ tiên để lại, nhưng không phải cái gì bị coi là không tinh hoa, là xấu cũng đập bỏ đi. Cả một di tích đẹp nhưng ở xung quanh có vài kiến trúc xập xệ thì vô hình trung kiến trúc đó có khi sẽ làm di tích nổi bật hơn. Lấy ví dụ về chùa Dâu - công trình được coi là chuẩn mực. Trước đây trước mặt chùa Dâu có chợ âm với những mái lều xập xệ, tạm bợ nhưng lại khẳng định nét đẹp tự thân cho chùa.

Thời gian vừa qua, khu di chỉ Vườn Chuối vẫn đang có những tín hiệu mới trong khảo cổ học. Nơi đây mang trong mình những giá trị vô giá, độc nhất vô nhị với 4 tầng văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn cùng hàng nghìn hiện vật, mảnh hiện vật đủ các loại chất liệu, từ đồ đá, đồ đồng, cho đến đồ gốm, tre, gỗ, thậm chí cả ngọc với nhiều chủng loại, từ vũ khí, công cụ lao động, sản xuất, công cụ sinh hoạt cho đến đồ trang sức.

Những di tích, di vật thu được trong nhiều đợt khai quật đã bước đầu giúp chúng ta khai thác giá trị của hiện vật về niên đại cũng như vẻ đẹp của nó. Kết quả khai quật nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học và người dân. Nhiệm vụ quan trọng tiếp theo là phải làm rõ tinh thần dân tộc học của những giá trị khảo cổ đó, để thấy được nhịp thở của đời sống xã hội, con người qua nhiều giai đoạn lịch sử ở Vườn Chuối. Từ những hiện vật đó có mối liên hệ gắn với tổ tiên, ông bà của chúng ta ra sao, và ngày nay nó tác động đến người dân như thế nào. Thời kỳ gắn với hiện vật ấy có nảy sinh ra được những huyền thoại, truyền thuyết không? Nghiên cứu dân tộc học bổ sung vào đó thì thành quả nghiên cứu sẽ đẹp lên, sinh động hơn và thuyết phục quần chúng hơn.

8-4.jpg -0
Cầu Thê Húc năm 1884 (Ảnh tư liệu).

- PV: Từ khi gắn bó với nghề đến nay, ông luôn miệt mài với một công việc duy nhất, đó là nghiên cứu di sản văn hóa. Có thể nói rằng, vẻ đẹp của những di sản văn hóa đã dẫn dụ ông trong suốt cuộc đời làm khoa học gần 70 năm qua?

- Nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền: Không chỉ là vẻ đẹp, mà còn là giá trị thật của những di sản đó. Trong gia đình tôi có mình tôi "đi lạc" sang lĩnh vực nghiên cứu văn hóa. Bố tôi là bác sĩ Trần Lâm Bảo (1905-1985), là một trong 10 vị bác sĩ đầu tiên của Việt Nam ngày trước, được đào tạo từ Đại học Y dược. Bố mẹ tôi sinh được 12 người con, 6 trai, 6 gái. Tôi là thứ 8. Tất cả chúng tôi đều lấy sự học làm đầu. Tuy nhiên, chỉ mình tôi làm khoa học xã hội. Chỉ có điều khác, là tôi nghiên cứu về xã hội bằng cái gốc của khoa học tự nhiên.

Năm 1958 tôi ra trường, rồi về Vụ Bảo tồn bảo tàng thuộc Bộ Văn hóa làm việc, âu cũng là cái duyên. Từ lúc ấy, chàng trai 20 tuổi là tôi bắt đầu những chuyến điền dã, nghiên cứu. Tôi làm công việc này suốt từ đấy đến nay, với một ý thức luôn phải tìm cái thật, không đi theo vết xe đổ của người khác.

- PV: Một nhà nghiên cứu văn hóa từ cái gốc khoa học tự nhiên thì trong quá trình nghiên cứu chắc hẳn có nhiều thú vị, thưa ông?

- Nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền: Không riêng mình tôi, GS Trần Quốc Vượng cũng rất thích toán học. Chính khoa học tự nhiên giúp tôi sắp xếp, diễn giải vấn đề một cách logic hơn. Những nhịp đập của khoa học tự nhiên nhập vào làm một với khoa học xã hội, luôn xuất hiện trong đầu tôi một tư duy đặc biệt, để khi nghiên cứu sâu về lĩnh vực tôn giáo tín ngưỡng thì lời văn của tôi có phần ảnh hưởng. Chẳng hạn, trong một lần đi điền dã, khi thuyền tôi trôi trên dòng sông Mã, mà sông Mã lại có đò dọc. Buổi tối, tôi nằm trên thuyền, trăng thanh gió mát, bỗng có tiếng chim thảng thốt giữa tầng không rồi tắt lịm, tôi bỗng nảy ra: "Một tiếng chim đơn côi/ Như gọi hồn ai bay vào vô tận".

Nghiên cứu về nghi lễ tín ngưỡng dân gian "lên đồng" của Việt Nam, tôi thấy rằng, "đồng" tức là đứa trẻ con, "lên đồng" là tự đẩy linh hồn của mình ra khỏi xác thân, đẩy hết những tiêu cực mà xã hội xưa ảnh hưởng đến bản thân, để trở về với tâm hồn của trẻ thơ. Chỉ có tâm hồn trẻ thơ trong sáng ấy mới nghe được tiếng thì thầm của vũ trụ mà thôi.

Khi nghiên cứu về chùa Việt, tôi thấy rằng dựa vào vị trí, quy mô có thể đoán định được hoàn cảnh khởi tạo của ngôi chùa đó với ý nghĩa sâu xa. Thế hệ con cháu đến với di sản không phải chỉ để cầu xin, mà hướng đến thiện tâm, hướng đến những điều tốt đẹp trên nền tảng trí tuệ. Trong di sản văn hóa, chúng ta tìm thấy nhịp thở của tổ tiên, nghe tiếng thì thầm của quá khứ, vì thế chúng ta phải có nghĩa vụ bảo vệ nền văn hóa của dân tộc.

- PV: Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện thú vị này!

* Ảnh trong bài: Nguyễn Thắng

Huyền Châm (thực hiện)
.
.