Con rái cá làng Nguyệt Lãng

Thứ Hai, 25/07/2016, 18:02
Tôi sinh ra và lớn lên tại một làng nghèo thuộc xã Thiệu Lý, huyện Thiệu Hóa, xứ Thanh. Nhưng làng quê nghèo khó này lại có tên đẹp và nên thơ: làng Nguyệt Lãng. 

Trong một bài thơ về làng, tôi đã viết: Yêu biết bao cái tên đẹp làng tôi/ Làng Nguyệt Lãng hay vầng trăng đang trôi… Toàn bộ tuổi thơ tôi gắn bó máu thịt với ngôi làng quanh năm làm nghề nông này.

Tôi biết làm ruộng từ nhỏ. Năm 14 tuổi, tôi đi bừa cùng mẹ tôi, mẹ một con bò, tôi một con bò. Vì người nhỏ, thấp, tôi phải vác bừa lộn ngược khi đến ruộng và lúc ra về. 

Tôi gánh phân cực khỏe, lúc đầu vài chục cân, sau này gánh đến 80kg phân chuồng là bình thường. Nhất là hồi gánh phân cho hợp tác xã nông nghiệp, gánh càng khỏe thì càng được tính nhiều điểm. Nhổ mạ, làm cỏ lúa, gánh lúa, đập lúa, tát nước, đào khoai… là những công việc quen thuộc đối với tôi hồi niên thiếu.

So với bạn cùng trang lứa, tôi có biệt tài kiếm cá. Chả thế mà bọn chúng gọi tôi là "con rái cá làng Nguyệt Lãng". Tôi kiếm cá ban ngày, kiếm cá ban đêm, kiếm cá trời mưa, kiếm cá khi trời nắng. Đến nỗi hồi đó, người tôi đen sì như củ súng vì suốt ngày bêu nắng. Bố tôi xót con, thường lấy khăn mặt quấn vào cổ tôi cho khỏi bị cháy nắng. Tôi có thể kể cho các bạn nghe hàng chục kiểu, cách kiếm cá, bắt cá, bắt cua, bắt ốc, bắt ếch… của tôi hồi trước.

"Đánh câu cặm" (thuật ngữ làng tôi - có nghĩa là câu cắm xuống đất) bắt cá chuối (cá quả). Cần câu là que tre già to bằng ngón tay, dài gần một mét, một đầu vót nhọn để cắm vào đất cho dễ, đầu kia vót mỏng, toàn cật, vừa dẻo vừa dai, nối vào đó đoạn dây cước dài chừng 50-60cm được buộc vào lưỡi câu có ngạnh. 

Tối nào cũng vậy, tôi mang vài chục cần câu như thế đi cắm rải rác ở các bờ ao, bờ ruộng trong làng. Mồi câu là ngóe, lưỡi câu được chọc vào đít con ngóe để nó có thể đung đưa, chạy lên chạy xuống trên mặt nước, lôi cuốn cá. Thấy con mồi sống quá hấp dẫn, quá ngon lành, cá chuối lao vào đớp thế là bị mắc câu. 

Từ đầu hôm cho tới sáng, cứ độ 2 giờ đồng hồ tôi đi "thăm câu" một lần, để phát hiện và bắt cá bị mắc câu. Bắt cá xong tôi lại mắc mồi ngóe vào lưỡi câu để câu tiếp. Mỗi đêm như vậy, tuy mất ngủ, nhưng tôi kiếm được cả chục con cá chuối. Cá chuối hồi đó là cá tự nhiên nên thịt thơm, chắc, cực ngon. Bây giờ ao làng tôi, đồng làng tôi hầu như sạch bóng loại cá chuối (cá quả) tự nhiên này. Lắm khi tôi thấy tiếc...

Năm tôi 14-15 tuổi, nhiều người làng ngạc nhiên khi đích mục sở thị tôi ngồi câu cá ở bờ ao. Câu cá gì mà một tay cầm cần câu nâng lên nâng xuống, còn tay kia cầm cái roi, hay cần đập nước, bằng cành tre, dài, dẻo, quất xuống nước liên tục, đều đều, tạo nên tiếng kêu "tỏm tỏm", tạo bọt nước trắng xóa. 

Tôi đang ngồi câu cá hay tôi đang xua đuổi cá? Tôi đang ngồi câu cá rạo (còn gọi là cá ngạo, có nơi gọi là cá ngão, cá thiếu) đó. Cá rạo thân dài, lườn lưng dày và hơi gù, mình dẹt dần về phía cuối bụng, vẩy trắng bạc. Miệng cá rạo rộng và sâu,  môi mỏng và hơi vểnh lên trên. Món ăn ưa thích nhất của cá rạo là tép. Cho nên, tôi thường móc vào lưỡi câu một con tép trắng. 

Vào mùa Xuân, khi các ấu trùng của tép nở thành tép con, cá ngạo bơi từng đàn để săn tìm. Đây là thời điểm thích hợp nhất để câu cá rạo. Hễ thấy có nhiều bọt nước là cá rạo lao tới đớp bọt, gặp mồi tép thì đớp luôn và bị mắc câu. Cá rạo rất phàm ăn, nên câu rất dễ. 

Thường chỉ vài giờ ngồi câu, tôi kiếm được chừng mười lăm, hai mươi con cá rạo loại to, đủ một bữa rán nhắm rượu và kho đầy một nồi đất. Thịt cá rạo thơm ngon, nhất là cái lườn lưng dày của nó rất nhiều thịt. Bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn thèm cá rạo quê mà một thời rất thân thuộc đối với tôi. Nhưng buồn thay, món cá ngon lành này cũng chỉ còn là kỷ niệm xa vời.

Hồi xưa, trước làng tôi, và cả trước nhà tôi, cánh đồng chiêm quanh năm ngập nước; cá, tôm, tép, cua, ốc… nhiều vô kể. Đồng làng chẳng những là nơi trồng lúa lấy lương thực mà còn là nơi nuôi dưỡng nguồn thực phẩm tự nhiên dồi dào, thức ăn sạch cho cả làng, vì hồi đó chưa hề sử dụng hóa chất trong nông nghiệp. 

Nước đồng làng tôi sạch đến nỗi, đang làm đồng trời nắng chang chang mà khát nước, thì chỉ cần ra chỗ nước trong lấy nón múc nước uống ngon lành, không hề có chuyện đau bụng. Hầu như suốt ngày tôi ở ngoài đồng, không làm lụng thì tôi kiếm cá, bắt cua, bắt ốc. Một trong những sở trường kiếm cá của tôi là đi úp nơm. Có nhiều cách úp nơm, tôi xin kể ra đây một cách mà tôi ưa thích. 

Vào vụ gặt tháng Mười, sau khi cắt rạ, cánh đồng làng tôi nom mênh mông như hồ nước cạn, nhiều cá, cá quả, cá diếc, cá rô… Đấy là lúc lý tưởng cho tôi đi úp nơm kiếm cá. Tôi đeo giỏ sau lưng, một tay cầm chiếc nơm tre, lội xuống ruộng. Tôi lội ruộng, nghiêng bàn chân phải, khoát nước, sao cho nước tóe ra càng rộng, càng xa, càng mạnh để dọa nạt cá. Mắt tôi chăm chú quan sát vùng nước trước mặt. Hễ phát hiện thấy vẩn đục nổi lên là ngay lập tức tôi úp nơm vào đó. 

Trong nơm đang có không con diếc thì con rô, không con rô thì con cá quả là cái chắc. Tôi chỉ cần thò tay vào bên trong, khoắng tròn là bắt được con cá bị "trúng nơm". 

Úp nơm kiểu này phải có kỹ năng, dẻo chân và dẻo bàn chân, phải nhanh mắt, tinh mắt và giỏi nhận biết, phải có nghề, nhiều kinh nghiệm. Các loài cá thường có phản xạ chui ngay xuống bùn, lủi trốn khi mặt nước bị rung động, cá sẽ tạo ra vẩn đục trên mặt nước cho ta phát hiện. 

Dựa vào đặc điểm này, người ta đã nghĩ ra cách úp nơm ruộng mà ở quê tôi người ta gọi là "úp nơm khoát" (khoát nước). Sau khoảng hai giờ úp nơm khoát là tôi có đầy giỏ cá mang về.

"Kéo khăng" bắt cá ao. Đây là một cách bắt cá khá độc đáo mà hồi nhỏ tôi thường làm, nhất là mùa hè nóng nực. Cách bắt cá này đòi hỏi phải có hai người, một sợi dây thừng và hai chiếc cán dài, tôi thường sử dụng cán nạo tre. Sợi dây thừng được buộc vào hai đầu cán nạo, cách  đầu cán chừng 20cm. 

Hai người lội xuống ao, tay cầm nơm, mỗi người giữ một cán, đầu có đây thừng chúc xuống dưới và bắt đầu rê dây thừng dọc theo đáy ao, mắt quan sát kỹ mặt nước nơi dây thừng rê qua, hễ phát hiện thấy tăm sủi lên thì dừng "kéo khăng" và ngay lập tức một người lao tới úp nơm vào chính giữa điểm sủi tăm này. Chắc chắn trong nơm đang có cá quả, cá diếc hoặc cá rô, thậm chí cá chép.

Dịch giả Lê Bá Thự buồn bã bên ao nhà. Ảnh: Lê Bá Long.

Chỉ còn việc thò tay vào nơm, khoắng thật mạnh, cho cá đang bị nhốt cũng xoay tròn quanh nơm, là bắt được. Cách bắt cá này dựa theo đặc tính, theo đó trên đường bơi hễ bất thình lình vấp phải chướng ngại vật là cá chui ngay xuống bùn để trốn tránh nguy hiểm và làm sủi tăm. 

Những năm sống ở làng, nghỉ hè chúng tôi hay tắm ao (toàn tắm truồng, bây giờ nghĩ lại thấy xấu hổ, nhưng hồi đó tắm truồng ngụp lặn dưới ao là  "thứ khoái" của lũ trẻ con nhà quê chúng tôi). Trước khi tắm, tôi và thằng bạn cùng xóm thường rủ nhau "kéo khăng" kiếm vài con cá để rán, hoặc nấu canh chua mà ở quê tôi gọi là "nấu dấm cá" (làng tôi không có sấu, quả chay, toàn nấu dấm cá bằng mẻ tự gây).

"Man ếch" (dùng đuốc sáng để soi và bắt ếch - thuật ngữ của làng tôi) - cái thú có phần "dã man" của tôi. Ngày trước, làng tôi cực kỳ lắm ếch. Ếch nằm trong các hố nhỏ, trong các bụi rậm, bờ ao… 

Hè lắm khi trời nắng dài ngày, khô hạn. Thường sau đợt nắng nóng ấy trời đổ mưa rào, nước chảy tràn trề, lênh láng, ngập làng xóm, ruộng vườn, không khí mát mẻ, người, vật khỏe hẳn ra, thèm muốn nhiều hơn ngày thường, cây cối tốt tươi trông thấy. 

Buổi tối mát sau một trận mưa rào là một buổi hẹn lý tưởng đầy lãng mạn cho những đôi ếch rủ nhau đi giao phối tại các vũng nước ngoài vườn, ngoài ruộng. Đây cũng là dịp lý tưởng cho tôi đi "man ếch".

Tôi kiếm mấy cây nứa khô, đập dập làm bó đuốc (hồi đó chưa có đèn pin). Tôi đốt đuốc và cuộc "man ếch" của tôi bắt đầu. Tôi tới những thửa vườn, thửa ruộng có tiếng ếch kêu. Từng đôi một, chúng đang say sưa yêu nhau trong màn đêm, chẳng còn biết trời đất gì. Còn tôi chỉ việc soi đuốc, chộp lấy từng cặp cho vào giỏ một cách ngon lành.

Bây giờ mường tượng lại, tôi thấy mình quá dã man, quá tàn ác, phá hoại cuộc tình đang đỉnh điểm của những đôi ếch vô tội và vô hại. Nhưng biết làm sao, ở thời mà miếng ăn là câu thúc hằng ngày. Vài chục đôi ếch bắt được trong một đêm thiên thời địa lợi là chuyện bình thường, bây giờ nằm mơ cũng không có được, vì còn đâu ếch tự nhiên trong môi trường độc hại toàn là hóa chất.

Thỉnh thoảng tôi lại về thăm quê, thăm làng. Lần nào, tôi cũng ra đứng giữa cánh đồng trước làng mà tôi từng gắn bó thời niên thiếu, nay là đồng cạn chứ không còn là đồng chiêm trũng như hồi trước, ngắm cánh đồng. Lúa đồng làng tôi giờ năng suất cao hơn xưa nhiều. 

Song chất độc từ thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các loại phân hóa học đã giết sạch mọi loài cá, tôm, cua, ốc ếch… vốn là nguồn thức ăn tự nhiên rất dồi dào từng nuôi sống tôi và cả làng tôi, không chỉ làm no bụng mà là ắp đầy kí ức. Các ao làng nhỏ lại, bẩn hơn. Cánh đồng đã nuôi tâm hồn bao lớp tuổi thơ, trong đó có tuổi thơ và tâm hồn thế hệ chúng tôi và lứa sau, nay mệt nhoài, xơ xác… 

Đau xót mỗi lần nhớ về Nguyệt Lãng, tôi thầm nghĩ, hóa chất bị dùng bừa bãi, bạo hành những cánh đồng gây nên cuộc "diệt chủng" không thương tiếc. Hai con trai của tôi sống nhiều năm ở thủ đô Ba Lan, đất nước vẫn còn nhiều những cánh đồng, nhưng không phải đồng quê Việt. 

Và sau này, các cháu nội tôi về làng, hương đồng gió nội thuần khiết đã mất đi từ thời cha của chúng. Còn những đứa trẻ ngày nay lớn lên ở làng, lấy gì nuôi kí ức ấu thơ? Tôi buồn và tôi bất lực.

Lê Bá Thự
.
.