“Hạt giống đỏ” kế cận (phần 2)

Thứ Tư, 03/06/2020, 14:41
Như đánh giá của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Đại hội XIII của Đảng không chỉ đề ra phương hướng, kế hoạch 5 năm (2021-2026) mà phải có tầm nhìn dài hạn, đến 2030 (100 năm thành lập Đảng) và định hướng đến 2045 (100 năm thành lập nước). Do đó, việc lựa chọn nhân sự cho Đại hội, nhất là với “hạt giống đỏ” càng có ý nghĩa chiến lược cho cả chặng đường dài phía trước.

Vậy, cần lựa chọn “hạt giống đỏ” như thế nào để phát huy tác dụng, đáp ứng yêu cầu đặt ra?

Như phân tích trong phần trước, quan niệm “hạt giống đỏ” chính là việc quy hoạch, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ trẻ cấp chiến lược, trong đó khái niệm trẻ hay “hạt giống” được hiểu là những cán bộ sinh trưởng trong thời kỳ đất nước hòa bình, thống nhất. Do bối cảnh tình hình, môi trường và yêu cầu công tác thay đổi nên việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ trẻ kế cận có tính chất, đặc điểm khác nhiều so với trước đây.

Chúng ta đề cập nhiều đến tư tưởng của Bác Hồ đối với công tác cán bộ và những câu chuyện ý nghĩa sâu sắc về việc sử dụng hiền tài của Bác. Ngày 14-11-1945, chỉ hơn 2 tháng sau ngày nước nhà được độc lập, Bác viết bài Nhân tài và kiến quốc, khẳng định “kiến quốc cần có nhân tài”. Đến cuối năm 1946, Bác gửi bức thư tìm người tài đức đăng trên Báo Cứu quốc, kêu gọi đồng bào cả nước ở đâu thấy có người tài giỏi thì xin mách bảo với Chính phủ để Chính phủ sử dụng.

Một hội nghị của Ban Tổ chức Trung ương đánh giá công tác luân chuyển cán bộ.

Bác viết: “Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận”.

Đồng thời, Người cũng đề xuất: “Nay muốn sửa đổi điều đó và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết. Báo cáo phải nói rõ: tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ”. 

Chính sự cầu thị và trọng dụng đó mà trong bối cảnh đất nước đầy gian khó, các giai cấp, tầng lớp đều hướng về cách mạng, gạt bỏ mọi vướng mắc để chung tay giúp nước. Từ các nhà Nho, nhân sĩ tài năng, uy tín trong xã hội như các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Võ Liêm Sơn, Nguyễn Văn Tố..., các vị quan chức cấp cao của triều đình nhà Nguyễn như Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại, Phạm Khắc Hòe đến các trí thức tài giỏi như Phan Anh, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Minh Giám, Phạm Huy Thông, Trần Văn Giầu, Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch... đều đã “xuất thân giúp nước” như lời Bác Hồ kêu gọi. Đặc biệt, khi đó nhiều người hiền tài được bố trí vào các công việc quan trọng của Đảng, Nhà nước có độ tuổi còn rất trẻ.

Ngày nay, chúng ta lựa chọn người tài đức đều thông qua quy trình với hồ sơ, lý lịch rất dày dặn. Hệ thống tổ chức cán bộ từ Trung ương đến cơ sở, có cấp ủy, các phòng, ban tổ chức tham mưu, giúp việc, thế mà việc chọn lựa người tài đức vẫn xảy ra tình trạng đúng quy trình nhưng sai người là vì sao? Những câu chuyện của Bác khi lựa chọn cán bộ ngày nay vẫn nguyên tính thời sự. Đó là khi lựa chọn ai, Bác không chỉ dựa vào báo cáo của cấp dưới mà còn cho gặp trực tiếp để trao đổi, đối thoại, đánh giá đúng thực tế về con người đó. Khi đã yên tâm để có thể giao việc, Người vẫn còn căn dặn rất kỹ.

Còn nhớ câu chuyện Bác chọn ông Lê Giảng, khi đó là cán bộ cao cấp của Đảng để bố trí vào chức vụ cao cấp trong ngành tư pháp. Sau khi nắm đầy đủ rồi, Bác mời ông Giảng ăn cơm. Trong bữa cơm, Bác nói: “Chú làm nghề này (tòa án) phải thiết diện vô tư. Nếu chú không thiết diện vô tư được, bác sẽ thiết diện vô tư với chú”. Câu chuyện đó càng thấu rõ cách chọn người, dùng người của Bác.

Ngày nay, “hạt giống đỏ” kế cận cần được lựa chọn như thế nào?

“Khen cho con mắt tinh đời, anh hùng đoán giữa trần ai mới già”. Các đồng chí mà chọn sai là rất nguy hiểm. Phải tinh đời. Trước hết mình phải trong sáng” - Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng viện dẫn 2 câu Kiều để nói về việc lựa chọn cán bộ chiến lược. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, công tác nhân sự Đại hội phải được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, khoa học và nhất quán, bảo đảm thật sự công tâm, thật sự trong sáng, khách quan, đặc biệt phải “có con mắt tinh đời” trong việc đánh giá, giới thiệu, lựa chọn; lấy tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và hiệu quả công tác, uy tín của bản thân và gia đình làm thước đo chủ yếu.

Lựa chọn cán bộ, không phải chỉ dựa vào bằng cấp, bằng hồ sơ, lý lịch. Ngày nay, điều kiện đất nước phát triển, kinh tế và sự học đều khá lên, học trong nước, học ngoài nước rất đa dạng thì việc cán bộ tự trang bị cho mình bộ hồ sơ với bằng cấp “sáng láng” không có gì khó khăn. Cho nên, lý lịch, bằng cấp mới chỉ là một yếu tố, điều kiện cần. Điều quan trọng là cán bộ đó thể hiện năng lực thực tiễn ra sao, chứng minh giữa “trần ai” thế nào? Vì lẽ đó, đối với cán bộ trẻ, việc luân chuyển để rèn giũa, thử thách tại cơ sở và bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, trình độ là 2 yếu tố cốt lõi.

Thời gian qua, thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhiều cán bộ thuộc diện “hạt giống” được điều động, luân chuyển từ Trung ương về địa phương hoặc từ địa phương này sang địa phương khác. Luân chuyển cán bộ là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, mục tiêu nhằm rèn giũa qua thực tiễn công tác tại địa phương, được thể hiện mình một cách đầy đủ cả năng lực, trí tuệ và đạo đức tại những vùng đất mới, con người mới, để tìm ra “anh hùng” giữa “trần ai”... “Hạt giống đỏ” kế cận nếu chọn đúng giống, đúng hạt rồi mà không qua thực tiễn, không luân chuyển để tôi rèn thử thách thì rất có thể hạt giống đó không phát huy “đỏ” như kỳ vọng, thậm chí rụng non, đổi màu.

Nhìn lại nhiệm kỳ trước, vào tháng 3-2014, Bộ Chính trị luân chuyển, điều động 44 cán bộ thuộc Trung ương quản lý, trong đó có 19 thứ trưởng và tương đương về các địa phương để chuẩn bị nhân sự lãnh đạo cấp ủy địa phương, cơ quan, đơn vị nhiệm kỳ 2015-2020. Trong 19 thứ trưởng và tương đương được Trung ương luân chuyển về địa phương thời điểm đó, có 9 người là Ủy viên Trung ương khóa 12, bao gồm các chức vụ như bí thư tỉnh ủy, bộ trưởng, thứ trưởng...

Sau 5 năm thực hiện điều động, luân chuyển 44 cán bộ “hạt giống” về địa phương, cơ bản những người được điều động đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đề ra và có sự thăng tiến. Cụ thể, tại thời điểm luân chuyển (3-2014), có 1 Ủy viên Trung ương, 1 Ủy viên dự khuyết; 19 thứ trưởng và tương đương; 25 cục trưởng và tương đương. Đến Đại hội XII (1-2016), có 11 người được bầu vào Ủy viên Trung ương, 3 người Ủy viên dự khuyết. Tính đến tháng 7-2019, có 29 người nhận nhiệm vụ mới so thời điểm luân chuyển; 10 người giữ chức vụ như khi luân chuyển và 4 người quay trở lại vị trí trước khi luân chuyển.

Như vậy, chủ trương luân chuyển là để cán bộ đến vùng đất mới với tư cách không bị ràng buộc bởi quê hương, dòng họ sẽ có tính độc lập tương đối và tránh các rào cản gia đình, bản quán để hoạt động. Nhưng, không phải ai cũng có tính độc lập tương đối đó để phát huy năng lực, sở trường. Có người đến vùng đất mới đã dính vào kỷ luật khi để xảy ra những sai phạm nghiêm trọng (như trường hợp ông Phạm Văn Thủy, vốn là một trong số cán bộ được Trung ương luân chuyển trong nhiệm kỳ 2011-2016, bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương kỷ luật cảnh cáo do để xảy ra sai phạm trong vụ án gian lận thi cử tại Sơn La).

Ngày 7-10-2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 98-QĐ/TW của Bộ Chính trị về luân chuyển cán bộ. Đây là quy định đầu tiên của Bộ Chính trị về luân chuyển cán bộ, cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa VIII) về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị (Khóa IX) về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý.

Quy định nêu rõ chỉ luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, không luân chuyển cán bộ làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ (trừ trường hợp nhằm mục đích tăng cường cán bộ cho cơ sở, cho lĩnh vực hoặc địa bàn cần thiết). Không điều động về Trung ương, về địa phương hoặc sang địa phương khác những cán bộ bị kỷ luật, năng lực yếu, uy tín giảm sút, không có triển vọng phát triển. Cán bộ luân chuyển phải trong quy hoạch, có triển vọng phát triển...

Chức danh bố trí luân chuyển áp dụng đối với cán bộ đã giữ chức vụ cấp trưởng 2 nhiệm kỳ liên tục và những cán bộ luân chuyển để thực hiện chủ trương không phải là người địa phương, khi luân chuyển chủ yếu bố trí làm cấp trưởng; đối với cán bộ trẻ luân chuyển để đào tạo, rèn luyện chủ yếu bố trí làm cấp phó; trường hợp khác do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Cán bộ luân chuyển còn thời gian công tác ít nhất 2 nhiệm kỳ (10 năm) tính từ thời điểm đi luân chuyển (50 tuổi đối với nam, 45 tuổi đối với nữ, trừ cán bộ nữ thuộc diện được kéo dài thời gian công tác theo quy định). Theo quy định này, thời gian luân chuyển ít nhất là 3 năm (36 tháng) đối với một chức danh (trừ chức danh kiêm nhiệm).

Từ thực tiễn công tác luân chuyển cán bộ, bố trí, sử dụng cán bộ cũng đặt ra những vấn đề cần rút kinh nghiệm, những khuynh hướng cần tránh.

(Còn tiếp)

An Nhi
.
.