Những nguy cơ môi trường hiện hữu

Thứ Tư, 06/11/2019, 15:14
Sự cố ô nhiễm nước sông Đà ảnh hưởng ước chừng 1 triệu dân thủ đô (250.000 hộ). Nghĩa là khoảng 1/10 dân số thủ đô bị ảnh hưởng. Không chỉ vì một xe đổ trộm dầu thải. Điều băn khoăn nằm ở việc Nhà máy nước sông Đà đã có biểu hiện đánh tráo khái niệm giữa "nồng độ clo cao" với "nhiễm độc stygren", và cả sự phản ứng có phần chậm trễ của chính quyền thủ đô.


Nhìn lại một sự cố hoặc một  thảm họa môi trường nào đó trong thời hiện tại chính là nhìn lại năng lực quản trị xã hội của chúng ta. Và thú thật, nhìn nhận theo hướng này, tôi thấy có nhiều chuyện đáng lo.

Giá mà phản ứng nhanh hơn

Nhiều ngày sau sự cố ô nhiễm dầu đường ống nước sông Đà, UBND thành phố Hà Nội mới thừa nhận và "hỗ trợ" nước bằng... xe bồn tưới cây. Dân phát hiện mùi lạ trong nước "hỗ trợ" và đổ đi, đồng thời truy vấn thì tài xế thừa nhận gấp quá chưa rửa xe bồn. 

Tại sao có thể gọi là "hỗ trợ" khi dân trả tiền nước sinh hoạt và bao gồm cả phí bảo vệ môi trường và thuế VAT? Nếu cộng giá nước với phí bảo vệ môi trường rồi tính VAT nghĩa là thuế chồng thuế. Việc Công ty sông Đà báo lãi 70 tỉ ngay giữa tâm điểm sự cố nước ô nhiễm càng làm nhân dân phẫn nộ hơn.

Dân phải dùng nước sinh hoạt có độc chất, người  bán biết có độc vẫn không cắt ngay nguồn độc và cũng chẳng thông báo tình hình đến người mua. Đó không đơn thuần là kinh doanh bất lương mà là vi phạm pháp luật. Vi phạm của họ thì cũng dễ xử lý thôi nếu đối chiếu với những quy phạm pháp luật hiện hành. Cái đáng lo hơn là phản ứng của chính quyền. Những ngày im ắng của hệ thống chính quyền thủ đô chính là những ngày phơi nhiễm độc tố đúng nghĩa. 

Chuyên gia y tế Nguyễn Trọng An đã khẳng định: "Xylen hay styren gây ô nhiễm nước sông Đà đều có thể gây ung thư lẫn bệnh thần kinh, bệnh ngoài da nếu dùng nấu ăn và tắm. Cả hai chất này đều vượt ngưỡng rất cao trong vụ ô nhiễm nước sông Đà". 

Trong trường hợp này  năng lực quản trị rủi ro của chính quyền rõ ràng cần xem lại. Và thuật ngữ "nước sinh hoạt an toàn nhưng khuyến cáo không uống, dùng nấu ăn" được đưa ra không khác gì một sự trêu ngươi vào sự thật khách quan, phủ định khoa học và phá vỡ luôn khái niệm an toàn.

Xin nhắc lại, 250.000 hộ dân bị ảnh hưởng chính là khoảng 1/10 dân số của trung tâm chính trị quốc gia. Và nếu không phải là một xe dầu thải đen ngòm mà là một xe độc chất khác cao hơn về độ độc hại, không màu không mùi thì sao? Cyanua chẳng hạn? 

Chỉ cách đây một năm tại Quảng Nam, một xe có chứa nhiều hoá chất đã bị bắt và con số hoá chất lên đến 625kg mà cyanua chiếm chủ yếu. Nếu là một cú đầu độc có chủ ý thì bao nhiêu người sẽ chết? Càng nghĩ lại vụ việc càng thấy rùng mình!

Sự rùng mình ấy, người viết đã trải nghiệm qua vụ cháy Rạng Đông. Khi vụ cháy xảy ra, đã có những nhà chuyên môn lên tiếng cảnh báo song dân chúng vẫn ở lại chờ kết luận của chính quyền. 

Và đến khi có kết luận từ Bộ Tài nguyên và Môi trường thì dân chúng mới nháo nhào dọn đi. Những ngày bên cạnh ngửi mùi thuỷ ngân bay hơi do phản ứng nhiệt sinh, sức khoẻ nhân dân quanh nhà máy sẽ thế nào? 

Về mặt nguyên tắc, ai cũng hiểu việc phản ứng chậm trễ trước các biến cố môi trường sẽ dẫn tới các hậu quả khốc liệt và lâu dài. Và nhân dân luôn là đối tượng bị động nhất, dễ tổn thương nhất nếu có biến cố môi trường xảy ra.

Câu hỏi về lực lượng phòng vệ biến cố môi trường

Người dân Hà Nội đã đóng thuế, đóng phí và trả tiền nước ở một nơi có luật riêng (Luật Thủ đô) và có cả các chính sách ưu đãi, vậy mà vẫn không thể dùng nước sạch. Chí ít, 1/10 dân số thủ đô đã "trải nghiệm" nước ô nhiễm đúng nghĩa qua vụ "nước sông Đà", và có thể coi đó như là một ví dụ khó chấp nhận về năng lực dự báo, ứng phó với các biến cố môi trường.

Từ vụ cháy thuỷ ngân nhà máy Rạng Đông đến nhiễm dầu thải Công ty Sông Đà, người ta có thể đặt ra câu hỏi: năng lực quản trị của chính quyền địa phương cần được hiểu như thế nào? Hiểu thế nào thì tuỳ nhận thức của mỗi người, nhưng tôi có thể khẳng định rất nhiều vùng tại Việt Nam khổ không kém Hà Nội, về nước sạch. 

Đã có những thống kê sơ bộ rằng 2.000 con sông tại Việt Nam đều có nguy cơ "chết" vì nước thải, trong đó, nhiều con sông đã "chết" thật sự. Sông ngòi ô nhiễm nghiêm trọng do các chất thải công nghiệp, chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, thuốc trừ sâu, vi khuẩn,... Sự cố "nước sông Đà" có thể chỉ mới cho thấy một phần sự thật về tình trạng ô nhiễm nguồn nước của chúng ta.

Lấy ví dụ chiếc xe tải chở dầu thải đã "tung tăng" từ Bắc Ninh đến Phú Thọ rồi qua Hoà Bình để đổ trộm chất thải. Chỉ một chiếc xe chạy đúng một lộ trình đã đủ đã làm nghiêng ngả đời sống 1/10 dân số thủ đô thông qua nguồn nước. Vậy thì chúng ta sẽ phải làm gì nếu đối diện với những trường hợp phá hoại an ninh môi trường một cách có chủ đích?  

Đã có người kể lại câu chuyện trước 1975, chính quyền miền Nam từng cử một trung đội riêng để bảo vệ Nhà máy nước Biên Hoà. Nó nhắc nhở chúng ta về việc trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không thể lơ là, chủ quan, mất  cảnh giác trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước. An ninh nguồn nước bị đe dọa thì an sinh xã hội sẽ dễ bị tổn thương, an ninh lương thực có thể bị tan vỡ. Đó là những nguy cơ mà chúng ta nhất định phải nhìn thấy trước.

Quan sát và lắng nghe những vận động xã hội nhiều năm nay, cá nhân tôi dường như chưa nghe thấy các nhà quản lý nói về an ninh... khí trời. Thực tế thì chúng ta có thể nhịn uống vài ngày, nhịn ăn cả tuần nhưng chúng ta không thể ngưng... thở trong vài phút. 

Cũng tại hai trung tâm lớn đất nước hiện nay là Hà Nội và TP HCM, ai cũng biết bụi mịn PM2.5 đã hoành hành. Và ở cấp độ toàn quốc đã có thống kê rằng có chí ít 50 nguồn thải siêu lớn với nhiều định dạng nguy cơ khác nhau.

Tất cả đều là những quả bom nổ chậm, siêu lớn mà chúng ta phải tìm cách gỡ bỏ trong thời gian tới.

Ông Phạm Văn Sơn, giám đốc trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam: Có những vấn đề 10 năm rồi vẫn chưa giải quyết!

"Mọi người đang nói nhiều về trách nhiệm của Nhà máy nước mặt Sông Đà, tập trung kết tội nhà máy, tuy nhiên vụ việc vừa qua còn có cả vấn đề lơi lỏng trong bảo vệ nguồn nước, thiếu kiến thức xử lý tình huống, vận hành nhà máy. Thực tế nguy cơ nguồn ô nhiễm, nguồn thải độc xâm nhập vào nguồn nước là rất nhiều. Vừa qua mới chỉ là dầu thải - chất có thể nhận biết được bằng mắt thường.

Nguy cơ ô nhiễm trên sông Đà rất nhiều. Nếu là tàu vận chuyển phân lân, thuốc bảo vệ thực vật, hay hóa chất, chất độc hại... sau va đâm bị chìm, không hiểu điều gì sẽ xảy ra. Chưa hết, ngay những nguồn thải cố định, chất độc hại cũng không được quản lý, kiểm soát, vẫn vô tư xả ra sông. Ví như với các phương tiện thủy có công suất động cơ thủy dưới 220KW, Bộ Giao thông vận tải quy định phải có can, két, thùng chứa nước nhiễm dầu, phải đưa nước nhiễm dầu lên bờ để xử lý tập trung. Tuy nhiên, chưa ai nhìn thấy một trạm xử lý nước nhiễm dầu tập trung nào ở trên bờ dành cho phương tiện thủy. Nên các tàu thuyền có thể cứ xả thẳng ra sông.

Hàng trăm nghìn tàu cá cũng vậy. Vấn đề này đã được nêu với Bộ NN&PTNT, bộ nói cũng quan tâm, nhưng trước các đề xuất về giải pháp thì không mặn mà gì. Bộ TN-MT cũng nói không kiểm soát vấn đề này, tàu thuyền cứ vô tư xả nước nhiễm dầu bao nhiêu năm nay. Vấn đề này đã được đề cập ít nhất 10 năm nay, bằng văn bản, bằng ý kiến ở các hội thảo, nhưng hình như đây là việc của ai đó chứ không phải là việc của cơ quan nào. Về nguồn ô nhiễm từ các cơ sở sản xuất ở hai bên bờ sông, thật sự không kể hết".

(Theo báo Tuổi Trẻ TP. HCM)

Mai Quốc Ấn
.
.