Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua

Chủ Nhật, 06/09/2015, 12:21
Hôm nay, vào cơ quan đã nhận được Thẻ Bảo hiểm y tế của mẹ từ Đà Nẵng gửi vào. Nhìn một lúc, tính rợ một lúc mới hay mẹ đã 86 tuổi. Chẳng rõ, nếu thọ bằng tuổi mẹ như bây giờ, y còn minh mẫn, đi chợ, nấu cơm, quét nhà, bơm nước, giặt giũ, xem tivi…? Nghĩ cũng may, nếu nhân loại không sáng chế ra cái truyền hình, những người già sẽ làm gì trong một ngày.

Đến năm 86 tuổi, y sẽ thế nào? Chẳng ai có thể biết trước điều gì. “Hãy cứ vui chơi cuộc đời. Đừng cuồng điên mơ trăm năm sau. Còn đây em ngọt ngào. Đứng bên ngày yêu dấu. Nhìn mây trôi đang tìm về núi cao” (T.C.S). Sống cho mình. Tận hưởng từng ngày. Nghĩ lại, các bậc làm cha mẹ khổ quá. Chỉ sống cho con. Làm mọi thứ cũng vì con. Bà mẹ nào cũng thương con. Khổ nỗi, thằng con mình nó lại mê con gái người khác hơn. 

Đêm hôm khuya khoắt lại mưa gió chẳng bà mẹ nào sai con đi ra phố mua cho bát phở, cái bánh ngọt... Mà có sai bảo, thằng con cũng vùng vằng, càu nhàu. Ấy thế, con vợ hoặc người tình sai bảo là nó chấp hành ngay tắp lự. Thậm chí, trước lúc đi, nó còn huýt sáo hào hứng như đang thực hiện một nhiệm vụ vẻ vang. Rất tự hào. Rất bản lĩnh. Rất đáng khen. Rất đáng tuyên dương.

Đừng nói đâu xa. Chính y đó thôi. Suốt một ngày chỉ viết lằng nhằng và không đi đâu xa ngoài thế giới mạng.

Quái quỷ thế giới mạng. Có những lúc gặp thông tin này kia. Bất ngờ. Hấp dẫn. Nó lôi tuột mình đi. Ngốn mất một ngày như chơi. Cả ngày hôm nay, chẳng viết được gì. Muốn thanh toán cho xong các bài viết. Dứt điểm. Anh em đang giục. Dành thời gian cho cái khác. Chẳng thể. Vừa viết đôi câu, thấy nản. Bèn sục sạo vào trang web giết thời gian. Chẳng rõ “ma đưa lối, quỷ đưa đường” thế nào, gặp ngay trang blog của ông bạn Vương Trí Nhàn.

Trên trang blog cá nhân, ngày 28/11/2010, anh viết: “Có một việc tôi đang muốn dành thời gian để làm - đọc lại sử mình những năm sau chiến tranh. Ví dụ sau khi đánh xong quân Nguyên, nhà Trần ra sao? Sách vở hiện đại ghi về chuyện này hơi ít. Cụ thể là trong các sử gia hiện thời, chỉ có Đào Duy Anh làm, và tôi chỉ mới đọc có ông chứ chưa có dịp đi vào mấy bộ sử cổ, song đã thấy cả một đề tài chưa ai khai phá”. Vâng, chúng ta có nhiều nhà khoa học, sử học mà ít thấy công trình nghiên cứu của họ.

Suy nghĩ của anh Nhàn lý thú quá: “Sau chiến thắng Nguyên Mông, ông cha ta làm gì?”. Câu hỏi lớn quá. Thú thật, gần đây, do viết lời thoại cho bộ truyện tranh thiếu nhi nên y có dịp ngấu nghiến lại bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Trong đó, nhiều, rất nhiều chi tiết hay. Chỉ đề cập một chi tiết về hạng cùng đinh, dân nghèo, nô bộc, gia nô, gia đồng. Vua Trần Nhân Tông bảo các quan cận thần: “Ngày thường, có thị vệ hai bên nhưng khi nước nhà hoạn nạn chỉ có bọn ấy đi theo thôi”.

Ôi! Chỉ một câu nói mà đọc xong ngẫm nghĩ nhiều điều. Có được ông vua như Trần Nhân Tông, hồng phúc của dân tộc ấy còn bền.

Lại đọc tiếp ghi chép của anh Nhàn. Ngày 8/5/2010, anh viết: “Hoàng Cầm qua đời. Nhiều báo đăng lại thơ ông, nhân đó tôi cũng đọc theo. Và đây là chuyện buồn cười với tôi: chợt nhận ra trong câu “Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng” thì lâu nay mình không hiểu “cửa võng” nghĩa là gì. Tra nhiều từ điển tiếng Việt đang được thông dụng không thấy. Mãi tới cuốn của Khai Trí Tiến Đức (in 1931), mới có chú “cửa võng: là cái diềm bằng gỗ chạm”.

Riêng cuốn của ban biên soạn New Era, do NXB Văn hóa Thông tin in 2005 thì ghi rõ hơn: “Diềm chạm trổ bằng gỗ, hình cong, nối hai cột giữa ở chùa và đền”. Vẫn còn tù mù quá, thế “diềm” là gì, nhưng thôi, có khi càng không hiểu mới càng cảm hết cái nhu cầu đi vào phía thần bí của thơ Hoàng Cầm”.

Nhân chiều nay rỗi, bèn tra chữ “diềm” xem sao. Cuốn Việt Nam từ điển của Hội Khai Trí Đức giải thích: “Diềm: Đồ thêu thường làm bằng tơ lụa treo ở trên màn, trên cửa cho đẹp: Diềm màn, diềm cửa”. Từ năm 1895, ông Huình Tịnh Paulus Của giải thích: “Diềm: Đồ thêu có mành mành, để mà treo giăng cho lịch sự”. Rõ ràng câu thơ đã dễ hiểu hơn. Mà đọc thơ chẳng cần phải hiểu đâu. Chỉ cần cảm. Có những câu thơ chẳng vội hiểu, nhưng chỉ nghe âm điệu ngân vang là tâm hồn đã xao xuyến:

Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua

                                    (Bùi Giáng)

Cần gì hiểu. Vừa đọc đã thấy hiện lên hình ảnh vàng son. Bùi ngùi thương nhớ. Sắc màu bàng bạc. Gợi cảm gợi tình. Mà cảm về thơ cũng vô cùng. Báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam cách đây vài số, khi viết về Bùi Giáng, nhà thơ Trần Nhuận Minh cho biết anh thích hai câu này:

Sáng nay bao tử mơ mòng
Cà phê bên nọ, cháo lòng bên kia

Y chẳng thích chút nào. Nhiều người khoái câu này cũng của Bùi Giáng:

Sài Gòn, Chợ Lớn rong chơi
Đi lên đi xuống đã đời du côn

Dù thừa nhận hay, “Nhưng bảo là sâu sắc thì mình chịu. Thơ đó mấy ông nhà thơ dân gian Bắc Kì, xứ Nghệ siêu hơn nhiều”. Ấy là cảm của một anh bạn nhà văn.

Vừa đọc xong bài viết Hồn vía bài chòi của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Anh đặt câu hỏi: Ở ngoài quê anh, có trò chơi người ta gọi là “Tôm cua bầu cá”, sao người trong Nam lại gọi “Bầu cua cá cọp”? Trò chơi này có “bàn cái” và chủ cái. “Bàn cái” là tờ giấy đặt dưới đất có hình vẽ nai, cua, tôm, cá, gà và cái bầu, người chơi bâu quanh. Chủ cái ngồi trước “bàn cái” đặt dĩa có thau nhôm úp lên.

Trong đó, có ba cái hộp cỡ bằng lóng tay cái, mỗi mặt luân phiên có sáu hình như hình trên “bàn cái”. Sau khi người chơi đặt tiền xong, không xê nhích, thay đổi gì nữa, chủ cái lắc vài ba cái. Rồi mở thau nhôm. Tất cả người chơi trố mắt nhìn vào cái dĩa đó, xem hiện ra hình gì. Kẻ thở dài, người cười rộ, xuýt xoa ầm ĩ.

Rõ ràng trên “bàn cái” không hề có hình con cọp, vậy sao Ông ba mươi lại nhảy tọt vào trò chơi này với tên gọi “Bầu cua cá cọp”?  “Có thể nơi nào đó, vẽ con cọp thay cho một con nào đó?” - anh Ánh hồ nghi. Nhưng điều đó không thể xảy ra vì vật dụng trò chơi này trước 1975 hầu hết do người Hoa Chợ Lớn cung cấp nên nó “nhất quán” lắm!

Thử lý giải: “Cọp” ở đây không phải con cọp mà chỉ là tiếng lóng. “Xem cọp”, “đọc cọp”, “chơi cọp” nghĩa là “ké” theo người khác. Nói như thế, vì trò chơi này thường đông trẻ con. Ai muốn đặt tiền vào ô có hình vẽ nào cũng được. Trong quá trình chơi, có người hên quá, trúng liên tục nên khi họ đặt tiền vào ô nào, những người chơi chung quanh cũng đặt “cọp” theo. Do đó, con cọp mới có dịp nhảy xổm vào và trở thành “danh chính ngôn thuận”  với tư cách “chính chủ”!

Chà, y thông minh quá. Y lý giải quá ngon lành quá ta. Vừa tự khen xong, y đã thấy không thuyết phục. Bèn tự cãi lại rằng, nếu “cọp” là tiếng lóng thì tại sao người miền Trung không gọi “Bầu cua cá cọp”, lại gọi “Tôm cua bầu cá”? Nếu ai đó hỏi như thế biết trả lời thế nào? Lại nữa, anh Ánh cũng hỏi vì sao cũng trò chơi này, khi nhắc nhân vật Cô gái Đồ Long trong truyện chưởng Kim Dung, lập tức, chú gà trống bị thiến thành… gà mái? Anh nêu bằng chứng câu hát của con nít ngày đó: “Cô gái Đồ Long lắc bầu cua/ Lắc ba cái ra ba con gà mái”. E hèm! Chú gà trống Gô-loa kia nếu biết ắt cũng nhảy đành đạch phản đối. Anh lý giải, câu này nghe hợp lý: “Có thể vì “Cô gái Đồ Long” là phận nữ nhi (hợp với gà mái!?), nhưng cũng có thể từ “gà mái” chỉ để hợp vần với chữ “cái” ở phía trước chứ chẳng phải là cuộc cách mạng gì ghê gớm về hình ảnh”.

Đọc vài hồi ký của các nghệ sĩ cải lương, thường nghe đến loại “vé cá kèo”. Sao lại cá kèo? Dò hỏi nhiều người mới biết con cá kèo bơi đứng, nó thường chúc đầu, loi ngoi lên mặt nước. “Vé cá kèo” là dành cho những người mua hạng bèo, hạng bét rẻ tiền đứng phía sau cùng trong rạp diễn nên họ phải luôn nhoi đầu lên, cao hơn người đứng trước thì mới thấy được cảnh quang phía trên sân khấu.

Lại nghe chuyện này, cụ Vương Hồng Sển cho biết trong hát bội miền Nam không dùng chữ “nghĩa” mà dùng “ngỡi”. Tại sao?  “Chuyện này là do người bạn quá cố Nam Sa Đéc truyền cho biết, như câu Lữ Bố với Điêu Thuyền: “…đây mong kết ngỡi, đó đành vong ân!”, vẫn hát “ngỡi”, kéo dài nghe êm, chớ “nghĩ…ỉa” (nghĩa) thì thối lắm” (Tạp bút năm Quý Dậu - NXB Trẻ - 2004, tr.259). Đọc sách nghiên cứu phong tục, sinh hoạt miền Nam của Sơn Nam, không thấy từ “địa chủ”, thay vào đó là “chủ điền”. Có lần hỏi ông tại sao, ông cười khà khà, không kết luận chỉ đặt giả thuyết, có thể do “địa chủ” nói lái không thanh lịch chăng?

Lại nghĩ vẩn vơ, viết về giới giang hồ Sài Gòn trước 1975, chỉ có anh Quang Hùng  và nhà thơ Đam San - tác giả quyển Đại bàng (NXB Văn nghệ - 1987) viết là hay. Vì họ sống cùng thời, cùng chung chạ khi ở tù. Sau này, đọc bài loại đó của các nhà báo trẻ, chỉ xào xáo lại thôi. À, cái đầu con người ta cũng kỳ cục. Đang viết chuyện này, tự nhiên lại nhớ nhà báo T.L - cây bút phóng sự số một của làng báo Sài Gòn thập niên 1990. Khi viết về ma túy, anh thâm nhập thế giới này, cũng hút thử. Lân la nhập bọn. Đồng hội đồng thuyền. Lấy tư liệu. Để viết. Rồi nghiện ngập. Chết trong nghèo túng. Con người dễ thương đó, nói giọng Bắc 54, mặt dài như mặt ngựa, kết thúc cuộc đời bi đát quá. Có những con người, đời sống của họ dữ dội quá.

Vốn sống nhàn nhạt, đời sống tẻ nhạt của một công chức mẫn cán nếu viết tiểu thuyết chẳng qua chỉ là trò tung tẩy chữ nghĩa. May quá, y chỉ làm thơ. Vậy có thơ gì không? Hỏi thế mà cũng hỏi. Đi hớt tóc thôi. Tóc dài rồi. Đã bạc. Mỗi thời mỗi khác. Thời tóc còn xanh, bước vào tiệm hớt tóc còn vênh vang, vênh váo lắm. Ỷ còn trẻ, còn khỏe. Nay bước vào quán hớt tóc nhìn thấy các cô nàng trẻ mơn mởn, tự dưng nuốt nước bọt, ngâm nga vài câu thơ tự giễu: “Cha chả đêm xuân đi hớt tóc/ Tóc rễ tre tua tủa túa như chông/ Nhớ cạo mặt ta cho nhẵn nhụi/ Râu ria nhột nhạt gái chưa chồng…”.

Rồi len lén thở dài.

L.M.Q.
.
.