Bên cột mốc số 0

Thứ Năm, 16/06/2016, 05:00
Cột mốc số 0 đường Hồ Chí Minh lịch sử nằm ở ngay Thị trấn Lạt, huyện Tân Kỳ, Nghệ An, được Binh đoàn 559 xây dựng như một tượng đài sừng sững.


Tân Kỳ nghĩa là mới và lạ. Đó là tính ngữ chỉ những sự vật xuất hiện làm mọi người ngạc nhiên, thích thú. Còn Tân Kỳ trong bài ký này là tên của một huyện vùng núi tỉnh Nghệ An, nơi bắt đầu con đường Hồ Chí Minh lịch sử. 

Xung quanh cột mốc số 0 ấy là cả một cuốn lịch sử oai hùng. Sông Con chảy qua đất Tân Kỳ, là một con sông rất lạ. Ở đất Nghĩa Đàn sông mang tên Hiếu, đến Tân Kỳ thành sông Con.

Đã là Con thì phải Hiếu, tên sông hay ý nguyện con người? Sông Lam là sông Mẹ, sông Cả, nên mới có Con có Hiếu. Đi hết huyện Tân Kỳ, sông Con bỗng chảy ngược lên vùng núi Anh Sơn xanh thẳm như lưu luyến không chịu từ giã đại ngàn. 

Đoạn sông chảy ngược này dài hơn 60 cây số, mới chịu đổ vào sông Lam ở ngã ba Cây Chanh. Hai bờ sông “chảy ngược” ấy tuy rất nhỏ bé về diện tích nhưng đó là mạch đất thiêng. Xưa kia ở đoạn đầu sông Con thuộc xã Nghĩa Bình có rất nhiều đền thờ như đền Đức Ông, Đức Bà, đền Chính, Đền Đơn, Đền  Eo…

Dọc sông Con từ đầu huyện đến cuối huyện Tân Kỳ có 99 đỉnh núi tụ về một hướng. Trong dãy núi có tên là Lèn Rõi ấy có một hệ thống hàng chục hang động rất hoang sơ, kỳ vĩ. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy trong Hang Chùa hàng trăm loại công cụ có hình dạng rìu đá, dao đá, chày đá... của người Việt Cổ. 

Sử sách chép rằng các hang động ở Lèn Rõi ấy cũng đã từng là nơi cất giấu vũ khí, nơi trú quân tập luyện, chính là “căn cứ địa” của nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi. Lê Lợi đã đưa quân từ Lam Sơn (Thanh Hóa) về đây để xây dựng lực lượng kháng chiến lâu dài, và tầm nhìn địa - chiến - lược ấy đã mang lại những trận đại thắng quân Minh lẫy lừng nhiều năm sau đó. Xuất phát từ đây, nghĩa quân Lê Lợi đã diệt  thành Trà Lương, Khả Lưu, Bồ Ải, Trà Lân... 

Tác giả (trái) ở Cột mốc số 0.

Theo sử sách, tất cả những trận đánh ấy, Lê Lợi đều xuất quân ở căn cứ Bãi Lơi Lơi, bãi Tập Mã, đồng Voi, núi Đồn, núi Cột Cờ, ở những thành lũy trên đất Tiên Kỳ, Giai Xuân... bên sông Con.  Trong áng hùng văn Bình Ngô Đại Cáo lẫm liệt của Nguyễn Trãi, có nhắc tên miền đất sông Con - Tân Kỳ  “Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay...”.  Đó là trầm tích lịch sử. 

Lịch sử cũng có một sự trùng hợp lạ kỳ. Gần 1.000 năm trước, vào thời Lý, con thứ 5 của Lý Thái Tổ là Uy Minh Hầu Lý Nhật Quang, trấn giữ châu Nghệ An (11-1041) đã dùng sức dân mở con đường thượng đạo trên đất Tân Kỳ. 

Con đường ấy đã góp phần quan trọng vào chiến thắng của vua Lê Thái Tông đánh tan quân Chiêm Thành ở cửa biển Ô Long mùa xuân năm Giáp Tý (1044).  Chống Mỹ, người Tân Kỳ lại một lần nữa xẻ núi, băng rừng mở đường thượng đạo: Đường Hồ Chí Minh lịch sử. 

Ngày 9-9-1964, trên một bãi đất hẹp dưới chân núi Dong, Trung đoàn 98 công binh đã bổ nhát cuốc đầu tiên mở đường Hồ Chí Minh. Nơi xuất phát điểm ấy là “Cây số 0” ở ngã ba thị trấn Lạt bên sông Con. Cuối năm đó, con đường bí mật ấy mới mở được 16 cây số. 

Thế mà một năm sau (10-1965) đoàn xe chở vũ khí lương thực đầu tiên đã chuyển bánh vào Nam. Con đường mòn mang tên Bác vươn tới tận Lộc Ninh, phía tây Sài Gòn. Con đường thượng đạo Hồ Chí Minh chính là cột xương sống vững chãi để dân tộc ta làm nên thắng lợi vĩ đại năm 1975 “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”…

Thời chống Pháp, bên dòng sông Con, gần cột mốc số 0 bây giờ, tại làng Sẻ, dưới chân núi Vực Lồ, xã Nghĩa Đồng có một xưởng quân giới rất lớn gọi là “Xưởng Huỳnh Thúc Kháng” thành lập từ năm 1947, thời của lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn từ Trung Quốc về làm tư lệnh Liên khu IV. 

Xưởng chuyên sản xuất các loại vũ khí như móc-chê (súng cối) 60 ly, đạn móc-chê 60 ly, súng Bazoka, rồi lựu đạn, mìn... để cung cấp cho Việt Minh trên địa bàn miền Trung, bộ đội ta ở Thượng Lào và chi viện cho công cuộc Nam Tiến. Xưởng quân giới đó đông tới 300 công nhân.  

Gia đình bên ngoại vợ tôi có người con nuôi tên là Nguyễn Văn Ngọc, người Hà Nội gốc, lúc đó làm kỹ thuật chế tác vũ khí. Năm nay bác Ngọc đã 90 tuổi, vẫn còn khỏe và minh mẫn lắm. Bác sống ở Thanh Xuân, Hà Nội, vẫn thường xuyên liên lạc với mấy cậu ruột vợ tôi. Trong một chuyến du lịch cách đây đã 6 năm, bác Ngọc đã vô Huế thăm vợ chồng tôi. 

Bác Ngọc kể rằng, thời đó, xưởng Huỳnh Thúc Kháng tiếng đe, búa chan chát suốt ngày đêm, người vào ra tấp nập. Thế mà bọn quân báo của Pháp không hề hay biết. Những người già ở làng Sen, làng Sẻ, làng Ga còn kể những kỷ niệm nóng hổi về những mối tình của người công nhân quân giới năm xưa. Ông Phan Nhật Lệ, Câu lạc bộ thơ Tân Kỳ đã có thơ ký ức về xưởng quân giới ấy: Ngày kháng Pháp sông bừng tỉnh lại/ Xưởng công binh đóng tại Vực Lồ/ Rộn ràng trên bến dưới đò… 

Một câu chuyện lạ lùng nữa bên sông Con là trong kháng chiến chống Mỹ có một sư đoàn xe đạp thồ mang tên Tân Kỳ tồn tại trong 3 năm ròng…. Hồi đó,  tất cả xe ôtô phải huy động hết cho việc chở hàng vào Nam, nên hậu cần tại chỗ ở Tân Kỳ gặp rất nhiều khó khăn. Tỉnh Nghệ An đã có sáng kiến tổ chức lại lực lượng xe đạp thồ theo cách làm trong vận chuyển chi viện chiến dịch Điên Biên Phủ năm xưa. 

Đầu năm 1972, Sư đoàn dân công xe thồ huyện Tân Kỳ được thành lập, làm lễ ra mắt trong rừng Lim cạnh Cầu Rõi hiện nay do một thường vụ huyện ủy làm “Sư trưởng”. 

Lúc này ở Tân Kỳ có rất nhiều đơn vị bộ đội, cơ quan, đoàn thể, kho tàng của tỉnh, của Quân khu 4 đóng quân, lại có  hơn 2 vạn dân Vĩnh Linh  đất lửa sơ tán ra theo chương trình K10, K8. Nghĩa là nhu cầu lương thực, thực phẩm... cung cấp hàng tháng tăng gấp 4-5 lần bình thường. Tất cả đều phải vận chuyển từ các kho ở Diễn Châu, Đô Lương, Yên Thành, Quỳnh Lưu lên, từ Nghĩa Đàn về. Vì thế việc thành lập Sư đoàn dân công xe đạp thồ là một quyết sách lớn của người Tân Kỳ... 

Sư Đoàn được tổ chức cứ một xã là một đại đội, dưới đại đội là trung đội, tiểu đội. 1.500 chiến sĩ dân công vốn là nông dân cày ruộng, cả đời chưa bao giờ một lần đạp xe đạp, thế mà họ đã luyện tập để nhanh chóng làm chủ được chiếc xe Phượng Hoàng chở 2-3 tạ hàng đi cả trăm cây số vượt dốc Truông Trầm, Ba Xanh, Truông Dong, Ba Quanh... đưa hàng về tập kết ở các kho cơ quan huyện, xã. Có người thồ đến 3- 4 tạ một chuyến, được tuyên dương “dũng sĩ vận tải”.

Có lần tôi mời nhà thơ - nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo về thăm quê vợ tôi ở Nghĩa Đồng bên sông Con. Hai nhà thơ đã vô cùng ngạc nhiên ngồi uống rượu suốt đêm nghe bác Huyền gái của tôi hát ca trù. 

Thời trẻ, bác Huyền là đào nương đi hát khắp ở Vinh, Diễn. Bây giờ đã 88 tuổi, dù không đàn phách gì, giọng ca của bác vẫn mùi lắm. Bác ca toàn bài ca trù cổ. Chỉ có điều bác không hề hay biết đó là những bài ca trù do tài danh  Nguyễn Công Trứ sáng tác: Thơ rằng: Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông/ Nợ đèn sách đem nghiên bút giá xong/ Cầu xe ngựa lúc đi về mới tỏ…

Nghe bác Huyền hát ca trù, đứng bên Tượng đài Cột mốc số 0 cao lớn, tôi cứ nghĩ miên man về một thành phố Lạt sầm uất tương lai… Huyện Tân Kỳ trước đây nghèo lắm. 

Từ ngày có đường Hồ Chí Minh đi qua giao thông thuận tiện hơn, nên sản xuất hàng hóa dịch vụ phát triển hơn. Đường sông Con, cao su tiểu điền… bán đi khắp nước.  Từ đây có thể vào Nam ra Bắc thuận tiện. Khách du lịch cũng đông hơn, vì rất nhiều  đoàn đến thăm Cột Mốc số 0 của con đường Hồ Chí Minh huyền thoại. Vâng, Tân Kỳ, nơi có cột mốc của đời tôi, miền đất khởi đầu những con đường lịch sử gian nan ấy, đang đổi thay từng ngày, mới lạ hơn từng ngày…

Ngô Minh
.
.