Sự tái xuất của văn học đô thị miền Nam: Hy vọng về một tương lai văn học đủ đầy

Chủ Nhật, 05/08/2018, 08:42
Vài năm trở lại đây, những nỗ lực kiểm thảo, sưu tầm, minh bạch hóa văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 đang dần là công việc mang tính thúc ước và thật may mắn, chúng đã được xuất bản, đăng tải, lưu hành khá sôi nổi trong nhiều nhóm cộng đồng.

Việc đọc, thẩm định tác phẩm của nhiều gương mặt quan trọng làm nên bộ phận văn học này cũng dần đi vào bài bản. Đặc biệt, trong số đó, một vài tên tuổi nổi bật đã có thể xướng lên với niềm yêu mến, ngưỡng mộ công khai.

1. Từ điển văn học (bộ mới, 2004) đánh dấu sự có mặt mang tính quy phạm và chính thống hóa của một số tác giả văn học đô thị miền Nam: Bùi Giáng (1926-1998), Bình Nguyên Lộc (1914-1987), Nguyên Sa (1932-1998), Dương Nghiễm Mậu (1936-2016). 

Cho dù quá ít ỏi và không thật sự sáng rõ mọi điều về văn chương của mỗi người nhưng ít nhất, bộ sách công cụ ấy cũng đã hé mở vài cửa ngõ để độc giả nhìn vào bộ phận văn học từng bị coi là sản phẩm đáng quên của chế độ cũ.

Trên thực tế, đó cũng là thời điểm một số đơn vị xuất bản trong nước tỏ ra khéo léo, mạnh dạn lựa chọn và ấn hành lại tác phẩm của nhiều nhà văn có tiểu sử và sự nghiệp khác nhau: Dương Nghiễm Mậu gây khá nhiều sóng gió với các tập truyện Nhan sắc, Cũng đành, Đôi mắt chân trời, Tiếng sáo người em út (2007); Nguyên Sa yên lành hơn với Tuyển tập thơ chọn lọc (2005); Phạm Công Thiện cũng trở lại với tuyển thơ Trên tất cả đỉnh cao là im lặng (2009); 

Bình Nguyên Lộc có vẻ xuôi chèo mát mái với Tuyển tập Bình Nguyên Lộc (4 tập, 2002), mà về sau lại in theo phần riêng, với Truyện ngắn Bình Nguyên Lộc (2012), Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (2017), Ký thác (2018), Hương quê (2018)... 

Mức độ phổ biến, đón nhận nhữn tác phẩm văn chương mới được tái bản chưa phải ở đâu cũng như nhau.

So với sự trở lại của một số tác giả mà lí lịch lẫn văn chương không bị coi là “có vấn đề” như Sơn Nam, Vương Hồng Sển, Trang Thế Hy thì Bùi Giáng với Đười ươi chân kinh (thơ văn tinh tuyển, 2012) cũng như hàng loạt dịch phẩm khác, Tràng Thiên với Quê hương tôi (2012) và Tạp văn (2014) hẳn nhiên là một tín hiệu quan trọng, không chỉ vì cho thấy sức đọc hôm nay đã tiếp cận được một hiện tượng thơ khó và còn lâu mới hoàn tất giải mã (như Bùi Giáng) mà còn báo hiệu những ngăn trở quá khứ, lịch sử xã hội sẽ dần khép lại trước nhu cầu thưởng thức văn chương.

Quả là độ lùi thời gian trong đời sống văn học, dù gì, cũng khiến các định kiến không thể kéo dài và sự tri nhận không rơi vào khuyết thiếu, chênh vênh mãi. Năm 2012, thêm một tác giả, lần này là nữ, Trần Thị NgH, được giới thiệu lại với bộ ba tập truyện Lạc đạn, Nhăn rúm, Nhà có cửa khóa trái.

Đến năm 2017, Nguyễn Thị Thụy Vũ, nữ tác giả được đón đọc bậc nhất trước 1975 ở miền Nam, gây chú ý vì trở lại cùng lúc với bộ 10 tác phẩm truyện ngắn, truyện dài. Như thể chẳng đặng đừng trước cơ hội “bước qua lời nguyền”,  đầu 2018, bộ đôi tiểu thuyết Tuổi nước độc và Sợi tóc tìm thấy của Dương Nghiễm Mậu đã được tái xuất.

Tác phẩm trở lại thì việc đọc, đánh giá văn học miền Nam 1954-1975 cũng  biến chuyển. Ngoài giới thiệu từng tác giả, tác phẩm riêng lẻ, đã bắt đầu có những nghiên cứu xoáy vào một vài vấn đề trọng tâm, kéo theo những nỗ lực dài hơi cả về tư liệu và nhận định.

Các công bố chính thức dưới dạng chuyên khảo hay tiểu luận của Trần Hoài Anh, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Mạnh Tiến, Đỗ Lai Thúy, Nguyễn Thị Việt Nga, Nguyễn Bá Thành..., đóng vai trò là chỉ dẫn bước đầu để quan sát bức tranh tổng thể đời sống văn hóa văn chương Sài Gòn trước 1975.

Đấy là chưa kể một khối lượng phong phú báo chí văn chương miền Nam, từ Sáng tạo, Hiện đại, Thế kỉ hai mươi, đến Bách khoa, Đại học, Văn,... và các tác phẩm khảo cứu, dịch thuật của Nguyễn Hiến Lê, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung, Vũ Đình Lưu, Tuệ Sỹ, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Duy Cần, Phan  Khoang, Kim Định, Nguyễn Thế Anh, Tạ Chí Đại Trường..., những nhân vật từng góp phần tạo nên đời sống văn sử triết sôi nổi ở miền Nam, đều đã và đang có mặt trên nhiều kệ sách và là thư mục tham khảo trong nhiều bài viết học thuật hôm nay.

2. Thực tế và những động thái tái dựng văn học đô thị miền Nam như trên chắc chưa thể coi là đầy đủ và có tính hệ thống. Chỉ một số lượng rất nhỏ những tác phẩm văn chương có hệ số an tâm cao về nội dung mới được xuất bản lại và mức độ phổ biến, đón nhận chúng chưa phải ở đâu cũng như nhau.

Ngay cả trong cộng đồng quan tâm, có thiện cảm lớn với bộ phận văn học này, từng đầu tư thời gian, kinh phí lẫn cách giải quyết phiền hà ngoài văn chương, khi bắt tay lần giở cảo thơm thì cũng chưa thấy mấy ai có thể  thuyết phục hoàn toàn cho mọi người hiểu đó là hành động nên chung tay góp sức hay chỉ cổ vũ đứng ngoài.

Tuy thế, với chứng cớ rằng đã có lượng độc giả tìm đọc văn học miền Nam 1954-1975 một cách tự thân, thì nhất thời, có thể tin sự ngăn cách quá khứ - hiện tại, và rào cản tâm thế sẽ dần được tháo dỡ, tiến đến những thông hiểu chính xác và chính đáng.

Tôi tin độc giả thông thái hôm nay đã không còn dễ dàng bị “dắt mũi” trong các diễn ngôn cho phép hay cấm kị đọc sách gì, mà từ đó dẫn đến thờ ơ, lãnh đạm, phủi tay với “ấn phẩm xám” nảy nở trong lòng miền Nam trước 1975. 

Bằng hành vi đọc của mình, độc giả, cũng như tất cả những ai tôn trọng mọi con đường đi tới thống nhất nhân tâm địa lí, đang góp phần tạo nên sự hiện hữu đáng tin của một nền văn học dân tộc đúng nghĩa.

Tương tự, nếu nhìn sang lĩnh vực âm nhạc, sẽ càng thấy sinh động và ngạc nhiên hơn nữa bởi sự hưng thịnh khắp thôn cùng xóm vắng của dòng nhạc bolero hay những tình khúc “đi cùng năm tháng” vốn từng được cất lên ở Sài thành trước 1975.

3. Văn học miền Nam đô thị 1954-1975 vẫn tiếp tục nằm trong “lãnh cung” nếu công việc tìm lại những tiếng nói và đồng thời, hiển thị chúng không được coi là trách nhiệm đương nhiên của văn học sử.

Bên cạnh những phát biểu cửa miệng mang tính chiêu tuyết cho việc dựng lại văn học miền Nam trước giải phóng, nhất thiết phải xây dựng được giáo trình văn học sử trọn vẹn, đa dạng, hợp lí. Tôi biết ở một số Văn khoa của các trường đại học đang cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu và giảng dạy vài tác giả nổi bật như Bùi Giáng, Mai Thảo, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa...

Bản thân các tác giả này, trong nhiều sự kiện văn học nghệ thuật khác nhau, cũng đều được giới thiệu với công chúng. Bởi thế, đây là lúc để giảng dạy lịch sử văn học trong một tổng thể văn hóa và giá trị dân tộc hài hòa.

Với lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, nhất là từ sau 1954, thì văn học đô thị miền Nam phải được coi là bộ phận hợp thành, và do đó, việc các tác giả tác phẩm được trở lại chính là để giảm thiểu sự khuyết thiếu nhiều năm liền trong cơ cấu tri thức văn hóa văn chương tiếng Việt mà sách vở nhà trường đang đối diện.

Cá nhân tôi và nhiều độc giả khác hẳn đều chờ đợi những tiếng nói và giá trị khác ngoài bộ phận văn học miền Bắc lâu nay, đặng cho cuộc đọc của mình sáng láng, hoan hỉ hơn.

4 thập niên qua, kể từ khi đất nước thống nhất, văn chương tiếng Việt đang không ngừng mở rộng không gian tồn tại, nhất là khi một số lượng lớn các nhà văn miền Nam trước 1975 vẫn tiếp tục cầm bút sáng tác ở hải ngoại, ở nơi họ trú xứ.

Thành quả sáng tạo của họ đang làm cho giao diện văn chương tiếng Việt mới hơn và cũng khác hơn so với quá khứ. Cần đón nhận thế nào bộ phận văn học này? Trong chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước là hòa hợp, hòa giải dân tộc, chúng ta thấy rõ văn chương văn nghệ đang đi những bước rất tích cực, ý nghĩa.

Bởi lẽ, phàm đã là văn chương tiếng mẹ đẻ, ít hay nhiều, chúng ta đều bắt gặp ở đó những hạnh phúc, buồn vui, những vấp ngã và trưởng thành của bóng hình dân tộc. Chẳng có khung hệ đánh giá nào bền vững và nhân văn hơn sự tỉnh táo nhận thức về mình, bao gồm cả quá khứ và hiện tại, để tương lai không bị áy náy, lấn cấn điều gì.

Theo nghĩa đó thì sự tái xuất của một số hiện tượng văn học đô thị miền Nam 1954-1975 cũng trao cho chúng ta nhiều hi vọng, nhất là hi vọng đủ đầy của tương lai.

Mức độ phổ biến, đón nhận những tác phẩm văn chương mới được tái bản chưa phải ở đâu cũng như nhau.

Mai Anh Tuấn
.
.