Từ làng Sen tới cùng thế giới
Ở Việt
Bác Hồ của chúng ta luôn được trân trọng nhắc tới như một tấm gương sáng của thời đại đầy bão tố và sóng gió trong thế kỷ XX: một con người có công lao lớn trong việc giành lại độc lập tự do cho tổ quốc mình và gìn giữ được những tinh hoa đạo lý truyền thống của Việt Nam và phương Đông, tạo nên một căn bản tư tưởng ích nước, lợi dân, hòa đồng cùng nhân loại. Giữa bề bộn các trào lưu tư tưởng và chủ nghĩa chính trị hồi đầu thế kỷ, bằng sự nhạy cảm thiên bẩm của một trái tim yêu nước thương nòi hơn hết cả, anh thanh niên Nguyễn Ái Quốc đã linh cảm đúng con đường mà nước Việt cần đi, không bị lóa mắt bởi bất cứ một lý thuyết nào dù hấp dẫn đến mấy nhưng không đặt sự giải phóng dân tộc lên trên hết.
Sự lựa chọn của Bác Hồ cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân các dân tộc Việt
Đọc lại hàng loạt những lá thư mà Bác Hồ từng gửi cho Quốc tế Cộng sản những năm 30 của thế kỷ trước, rất dễ nhận ra cách hành xử đầy tài trí và tinh thần vì nước quên thân của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc. Bác đã hành động đúng như Bác nói rằng Bác đến với chủ nghĩa Mác-Lênin vì thấy ở đó con đường duy nhất có thể giúp cứu dân tộc mình, Tổ quốc mình khỏi ách thuộc địa.
Được soi rọi bởi chủ nghĩa Mác-Lênin, Bác vẫn biết cách tiếp thu những tinh hoa lý tưởng khác của nhân loại để làm giàu có thêm gia tài lý luận của những người cách mạng Việt
Người viết: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm ở sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là lòng bác ái. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện của chúng tôi. Khổng Tử, Giê-su, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu họ còn sống trên đời này và họp lại một chỗ, tôi tin rằng nhất định họ chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm vị học trò nhỏ của các vị ấy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phòng làm việc của Người tại căn cứ địa Việt Bắc (1951). |
Trên những con đường bôn ba thế giới lúc nào Nguyễn Ái Quốc cũng canh cánh bên lòng mục tiêu cứu nước, cứu dân. “Dân duy bang bản, bản cố bang ninh” (Dân là gốc của nước, gốc có vững thì nước mới yên) - Sách cổ Trung Hoa Hạ thư đã từng ghi vậy. Là người thấm nhuần tinh hoa văn hóa phương Đông cũng như phương Tây, sinh thời, Bác Hồ vĩ đại trong mọi suy nghĩ và hành động đã thể hiện rõ tư tưởng “gốc là dân” và nhất quán quan điểm vì dân tộc mình tới tận cùng, tức là sẽ gặp gỡ nhân loại. Càng biết nhiều, càng trung thành và chung thủy hơn với mục đích cứu nước, cứu dân, lấy đại đoàn kết toàn dân làm gốc.
Chính nhờ biết xây dựng khối đoàn kết toàn dân, “lực lượng vĩ đại hơn hết” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, nên những người Cộng sản đã lãnh đạo thành công đất nước đứng lên đánh đổ các ách thống trị thực dân và phát xít, giành lại độc lập tự do cho dân tộc, xây dựng xã hội mới trên nền tảng của những tư tưởng cách mạng, dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Lại nói theo lời Bác Hồ: “Đó là một cuộc thắng lợi xưa nay chưa từng thấy trong lịch sử nước ta”.
Từ nhân dân mà ra và cùng nhân dân mà chiến thắng - đó là một trong những bài học lớn của cách mạng tháng 8-1945, của toàn bộ cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và XHCN ở Việt Nam. Một nhân dân đã được giác ngộ và đi theo Đảng rõ ràng đã là cái gốc của mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Cũng chính vì nhân dân là cái gốc của mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản nên mọi hoạt động của chính quyền mới đều xuất phát từ tình yêu nhân dân sâu sắc và nhằm mục đích vì hạnh phúc của nhân dân, tạo điều kiện tốt nhất để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Làm cho nhân dân được tự do hạnh phúc mới là mục đích cuối cùng của cách mạng và của những người cộng sản Việt
Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân nhưng luôn là một bộ phận khăng khít của dân tộc và ở trong nhân dân chứ không phải ở trên dân tộc hay nhân dân. Có thế, Đảng mới thực sự là sự chọn lựa tốt nhất của dân tộc, của nhân dân. Điều này đã được Bác Hồ quán triệt ngay từ những ngày đầu tiên của chế độ mới. “Dân chủ” đã là một trong những từ được Bác Hồ nhắc tới nhiều nhất trong các bài viết của Người trong những năm đầu của chế độ mới và cả sau này nữa. Bác luôn nhấn mạnh tới khối thống nhất giữa nhân dân và chính quyền cách mạng, giữa nhân dân với Đảng Cộng sản.
Ngày 17/10/1945, trong thư gửi uỷ ban nhân dân các cấp, Bác viết: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không có lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết một khối. Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”... Để chế độ mới thực sự là của nhân dân, các cán bộ cách mạng cần:
“Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.
Và để thực sự xứng đáng là “người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành với nhân dân”, Đảng ta cần “thật trong sạch” và mỗi đảng viên phải “thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” (trích Di chúc). Những lời này cho tới hôm nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự và vĩnh cửu của nó. “Tu thân” theo những tiêu chuẩn của người cán bộ cách mạng cần phải là một việc làm thường xuyên, hàng ngày và lâu dài của tất cả chúng ta!
Trong bản Di chúc, Bác Hồ cũng đã không quên căn dặn rằng, Đảng ta “cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân”. Một nỗi niềm đau đáu vì dân của nhà lãnh tụ cách mạng kiệt xuất, vị Cha già của dân tộc!
Những tư tưởng quí báu “vị nhân dân” của Bác Hồ đã soi rọi con đường lắm gian khó, chông gai và thử thách nhưng cũng nhiều thắng lợi và vinh quang hơn nửa thế kỷ qua của cách mạng Việt