Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên: Việc càng khó, càng muốn làm

Thứ Năm, 13/10/2011, 15:08
Cha tôi năm nay gần 90 tuổi, nguyên là một sĩ quan của Đoàn 559, từng hơn mười năm lăn lộn ở Trường Sơn. Những năm gần đây, mỗi khi có thời gian cùng ngồi trò chuyện với ông, nhớ lại "thời trung niên sôi nổi" của ông trong chiến tranh, tôi thường nghe thấy ông nhắc tới vị thủ trưởng cũ của mình, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, với những lời trầm trồ, kính trọng nhất.

Và cha tôi luôn rất quan tâm tới tất cả những gì liên quan tới người cựu Tư lệnh của Bộ đội Trường Sơn trong đời sống hôm nay. Ông vẫn theo thói quen cũ là rất tin vào những câu nói của người thủ trưởng vì ông đã từng không chỉ một lần chứng kiến, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên đã có những quyết định táo bạo và bất ngờ đầy hiệu quả thế nào để Bộ đội Trường Sơn tạo nên được bước ngoặt lớn và hoàn thành nhiệm vụ tối quan trọng của mình trong chiến tranh với những mất mát hy sinh được giảm thiểu nhất. Thực sự tôi vẫn nghĩ những người như cha tôi là một thế hệ may mắn vì được ở gần những vị thủ trưởng như thế.

Cá nhân tôi, một kẻ hậu sinh, cũng rất tò mò muốn được biết gần về con người mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng nhận xét rằng: "Đồng chí là  một cán bộ đảng viên mẫu mực có phẩm chất trong sáng, sống trung thực, khiêm tốn, giản dị. Đồng chí là người hoạt động thực tiễn sôi nổi, sâu sát, có hiệu quả, nói đi đôi với làm, có tư duy đổi mới, có tinh thần quyết đoán, dám chịu trách nhiệm. Đồng chí  Đồng Sỹ Nguyên - một trong những vị tướng tiêu biểu của Quân đội ta. Đối với tôi, tướng Đồng Sỹ Nguyên là một trong những người đồng chí, người bạn chiến đấu thân thiết gần gũi suốt cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc mà tôi rất tin và quý mến".

Chính vì thế nên tôi đã nhờ người bạn vong niên, anh Nguyễn Sỹ Hưng, con trai của Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, sắp xếp cho tôi được gặp bố anh. Anh Nguyễn Sỹ Hưng từng là một sĩ quan không quân, sau về Vietnam Airlines và làm tới chức Chủ tịch Hội đồng Quản trị nhưng lại rất mê việc viết văn, dịch sách. Chính vì thú vui này của anh nên tôi mới có hạnh ngộ được tương đối thân với anh từ không chỉ một năm nay.

Cuộc trò chuyện này với Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, diễn ra tại nhà riêng của ông, một ngôi nhà có khuôn viên đẹp, xanh mát bóng cây nhưng trong nhà vẫn với kiểu bài trí giản dị mà tôi đã quen từ thời ở các khu tập thể quân đội thời chiến tranh.

Ở tuổi cửu thập, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên vẫn giữ nguyên phong cách thẳng thắn, mạnh mẽ mà vẫn anh minh tinh tế. Ông hay sử dụng những từ mạnh... Tôi không dám lạm dụng thời gian của ông nên mới chỉ hỏi được một số ít chuyện trong cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú và không bao giờ là dễ dàng của ông.

Tôi tự chọn tên cho tôi

- Nhà thơ Hồng Thanh Quang: Đối với các thế hệ hậu sinh như chúng tôi hôm nay  thì ông cũng là một trong những nhân vật huyền thoại từ một thời rất hào hùng của đất nước. Ngay cả cái tên mà ông đang mang cũng đã làm nảy sinh ra bao nhiêu câu chuyện. Có người kể là tên thật của ông vốn là Nguyễn Sỹ Đồng, có đúng vậy không ạ?

- Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên: Không phải là Nguyễn Sỹ Đồng đâu. Tên cha mẹ đặt cho tôi là Nguyễn Hữu Vũ. Khi tham gia hoạt động cách mạng, tôi lấy bí danh là Đồng, đến khi tham gia bầu cử Quốc hội năm 1946 đã lấy tên là Nguyễn Văn Đồng. Rồi sau Cách mạng tháng 8, vào kháng chiến, lúc hoạt động  ở địch hậu thì tôi mới lấy tên họ là Đồng Sỹ Nguyên.

Ảnh: Nguyễn Thiêm

Chứ còn cái tên Nguyễn Sỹ Đồng là do một nhà báo X. (vì tôn trọng đồng nghiệp lớn tuổi hơn tôi nên tôi đã xin phép được ghi tắt tên họ nhà báo này - HTQ) viết không chính xác, tôi đã yêu cầu tờ báo đó đính chính nhưng họ cứ lờ đi. Ngay cả sự việc nói trong bài báo đó cũng là tầm bậy, không có đâu. Tôi rất bức xúc vì chuyện đó vì họ bảo tên tôi là do Bác Hồ đặt cho. Nói bất cứ chuyện gì có liên quan tới Bác Hồ thì đều phải thận trọng và trung thực, có sao nói vậy chứ không được bịa ra.

Không phải Bác Hồ đã đặt cho ông cái tên Đồng Sỹ Nguyên?

- Không phải. Tôi tự chọn tên cho tôi.

- Liệu trong cái tên này ông có gửi gắm gì không hay chỉ là tình cờ như thế thôi ạ? "Đồng" có nghĩa là chung, như đồng chí ấy?

- Thời hoạt động bí mật thì cứ chọn ra một cái tên để gọi nhau cho nó tiện. Đồng là cái tên đầu tiên tôi chọn làm bí danh năm 1937. Về sau, tôi muốn giữ cái chữ  "đồng" đó làm kỉ niệm nên dù chọn bí danh gì tôi vẫn để chữ đó lại.

- Ông vừa nói rằng, ông có bí danh là Đồng năm 1937. Khi ấy, ông mới 14 tuổi. Ông đã tham gia hoạt động cách mạng từ sớm vậy ư?

- Thực sự là tôi may mắn sớm được sự dìu dắt những người anh cách mạng cùng quê. Tôi sinh ra ở thôn Trung, xã Quảng Trung, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, một miền quê gắn bó rất chặt chẽ với sông Gianh. Gia đình tôi nghèo lắm, cha tôi mất khi tôi mới 10 tuổi, để lại mình mẹ tôi phải nuôi cả 7 người con. (Mẹ tôi mất năm 1982, thọ 100 tuổi!). Tôi là con thứ 5. Nhà nghèo nhưng mẹ tôi vẫn cố cho chị em tôi ăn học, nhất là tôi. Khi tôi khoảng 12 tuổi, tôi tình cờ được quen với anh Tế, làm nghề thợ may ở chợ Sải. Về sau tôi mới biết, anh Tế chính là một đảng viên cộng sản từ những năm 30, từng bị giặc bắt giam. Ra tù, anh mới chọn nghề làm thợ may để độ nhật và cũng để có vỏ bọc mà tiếp tục  tuyên truyền cách mạng. Chính anh Tế là người dần dà giác ngộ cách mạng cho tôi. Và năm 1938, anh Tế giới thiệu tôi vào Đảng...--PageBreak--

Mạnh bạo, chứ không phiêu lưu

- Tôi biết là trong cuộc đời hoạt động của mình, ông đã từng đảm đương nhiều công việc khác nhau. Nhưng trong ký ức của rất nhiều người, ông trước hết vẫn nổi bật lên là vị Tư lệnh của chiến trường Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh. Bây giờ, sau rất nhiều năm trôi qua thì ông còn giữ lại được kỷ niệm gì sâu sắc nhất về con đường Hồ Chí Minh và những người lính của ông ở trên dải Trường Sơn?

- Đúng là tôi đã phải trải qua rất nhiều công việc, có việc chỉ phụ trách được có 5 tháng. Và thời kỳ công việc coi như là ổn định nhất thì đúng là 10 năm ở Trường Sơn.

- Ông cảm thấy Trường Sơn đã giúp ông thu nhận được những kinh nghiệm gì?

- Có thể nói thế này, Trường Sơn chính là nơi mà tôi thể hiện được những kiến thức quân sự đã học được ở trường, ở Học viện Quân sự cao cấp. Hay nói cách khác, đó là nơi tôi thực hiện ý thức quân sự của cả quá trình ở trong quân đội, không phải chỉ riêng Học viện. Bởi chính ở Trường Sơn, tôi là người lãnh đạo chủ chốt cho nên tôi có điều kiện để cùng với tập thể quyết định những việc trọng đại.

- Tôi nhớ đã đọc được ở đâu đó rằng, năm 1958, khi được phong quân hàm đại tá, ông mới 35 tuổi. Và năm 1964, sau khi đi học ở Học viện Quân sự cao cấp, ông đã được phong làm Tổng Tham mưu phó. Khi ấy, ông cũng chỉ mới 41 tuổi... Bây giờ, ở tuổi tứ thập, cùng lắm chỉ có thể lên tới cán bộ cấp sư đoàn cũng đã là nhanh lắm rồi!

- Ngay năm 1965, tôi đã được cử vào làm Chính ủy kiêm Bí thư Quân khu 4 cùng với Tư lệnh Nam Long. Với anh Nam Long thì chúng tôi đã có kỷ niệm với nhau từ những năm kháng chiến chống Pháp.

Năm 1949, khi được đi học lớp trung cao cấp quân sự ở Việt Bắc do Thiếu tướng Trần Tử Bình và Thiếu tướng Lê Thiết Hùng phụ trách, tôi đã được chỉ định làm Chính trị viên Đại đội học viên, kiêm Bí thư Chi bộ nhà trường, còn anh Nam Long làm Đại đội trưởng. Giờ gặp lại nhau ở Quân khu 4 thì rất vui. Anh Nam Long là người dân tộc, nhưng là con người quý lắm, chất phác, bản lĩnh, trung thành, lại rất có tình với đồng chí đồng đội. Anh ấy là Tư lệnh, tôi là Chính ủy nhưng những ý kiến mà tôi nêu ra thì anh đều ủng hộ hết.

Ví dụ, tôi nói, bây giờ phải tổ chức mạng lưới phòng không của Quân khu 4 thành chiến tranh nhân dân thực sự chứ không phải chiến tranh nhân dân chỉ trên danh nghĩa thì vấn đề thứ nhất là, phải tổ chức lưới lửa phòng không nhiều tầng, nhiều lớp, từ trọng điểm ra đến thôn xóm. Anh Nam Long nghe thế thì rất ủng hộ.

Một vấn đề tổ chức lưới lửa phòng không nhiều tầng, nhiều lớp để thể hiện triệt để quan điểm chiến tranh nhân dân, công nghệ và quân sự đến đó. Thứ hai, vì vũ khí mình ít mà không quân địch lại mạnh nên mình phải biết cách kết hợp thật với giả, trận địa thật với trận địa giả, thực hiện nghi binh có nghệ thuật và cơ động. Cho nên cứ dùng thợ mộc làm trận địa bằng cây phi lao đặt ở trên...

- Những ngọn đồi cao...

- Đúng thế. Nhưng radar thì lại phải là thật.

- Radar thật, nhưng súng thì giả?

- Radar thật, còn súng thì giả. Lúc đó mới thật sự là nghi binh. Rồi mình cũng phải để một hai khẩu đội ở xung quanh bắn thật...

- Phải hư hư thực thực chứ hoàn toàn là giả thì địch nó sẽ không dễ bị mắc lừa.

- Nếu chỉ nghi binh theo kiểu thô sơ thì không ăn được đâu

- Đan xen cả thật lẫn giả trong đấy. Đó là "nguyên tắc vàng" không chỉ của phép nghi binh mà còn của rất nhiều sự trên đời (cười).

- (Cũng cười): Thứ ba là phải kết hợp vừa chốt trận địa, vừa cơ động linh hoạt để phản tập kích bất ngờ vào kẻ địch. Thí dụ khi máy bay địch đánh cầu Cấm thì vì cụm pháo ở khu vực đó yếu nên mình phải chi viện, dùng cả một đại đội đi tới đó, đi ban ngày, vừa đi vừa bắn. Hạ được hai máy bay...

- Tôi nghe nói ông thường đưa ra những giải pháp bất ngờ với tư duy thông thường khi đó nên cũng hay gặp những sự chưa hẳn đồng thuận, có đúng vậy không ạ?

- Những việc làm trên đều được Tư lệnh Nam Long ủng hộ nên đều thực hiện được. Còn tới chuyện sau đây, mặc dù cũng được Tư lệnh ủng hộ, nhưng mình vẫn bị gay go. Số là, khi ấy Liên Xô có chi viện cho nước ta mấy bộ đèn chiếu  bắn ban đêm, Quân khu 4 được cấp một bộ 6 chiếc.

Anh em mang về cất trong kho. Tôi mới bàn với anh Nam Long và được anh đồng ý cho mang ra sử dụng, để bắn ban đêm khi máy bay địch vào. Khi 7 máy bay địch rầm rộ tiến vào bầu trời trên thành Vinh thì đèn của ta chiếu lên sáng rực cả. Chúng hãi quá nên vội vàng tháo chạy ngay.

- Không vào ném bom nữa?

- Không vào ném bom nữa. Mình bắn vu vơ thôi mà nó cũng không vào nữa. Và cũng thấy lạ, tại sao...

- Tại sao Việt Nam lại có loại đèn này?

- Tại sao Việt Nam lại có loại đèn này? Thế nhưng, trong lúc ấy thì một đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy Nghệ An lại điện cho Trung ương để phản đối, cho rằng làm thế là mạo hiểm. Cho nên "ông" Tổng cục Chính trị đã cử người vào. Gặp tôi, tôi bảo, Liên Xô họ viện trợ đèn cho mình để mình bắn chứ có phải để cất trong kho đâu, sao các anh phí phạm thế! Thế nhưng, có người nói, ban đêm thì đèn pin cũng phải cấm, khăn mặt trắng cũng không được phơi ngoài sân... Buồn cười lắm.

- Mỗi thời có một kiểu quá đà của nó... Thế ông có vì vụ này mà bị "xử lý" gì không?

- Cách nghĩ ấy, theo tôi, là do kiến thức quân sự kém và sự am hiểu binh khí kỹ thuật cũng kém. Có trong tay vũ khí khí tài rất tốt nhưng cất trong kho, đấy là có tội... Thế nhưng, có đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy gửi điện ra Trung ương. Tôi nghe nói là khi đọc bức điện này, anh Ba (đồng chí Lê Duẩn - HTQ) cứ cười. Và thế là tôi thôi làm Chính ủy Quân khu 4.

Một năm, ba lần thay đổi công tác

- Đó là vào năm nào vậy?

- Vẫn trong năm 1965. Lúc giữa năm.

- Vậy nghĩa là ông chỉ làm Chính ủy Quân khu 4 được có 5 tháng...

- Tôi về Hà Nội nghỉ được ít thời gian thì trên lại điều đi luôn, mà đi làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Bộ đội tình nguyện Trung Hạ Lào. Tôi bảo, các anh cứ điều, đi đâu tôi cũng đi được, nhưng đi chỗ nào có chiến tranh ác liệt thì tôi đến. Sau khi chỉ huy đánh thắng trận Ma Ha Xay và tấn công tiêu diệt hàng loạt cứ điểm của ngụy Lào - Thái, lúc tôi đang đi trên đường 9, thì bị máy bay địch bắn vào xe nên bị thương nặng.

- Ông đã bị thương nặng?

- Đạn dính vào động mạch chính. May mà đội phẫu thuật của mình đóng ở gần đó nên cấp cứu kịp thời, chứ nếu chậm tí nữa là chết... Rồi tôi về Hà Nội điều trị tại Quân y viện 108.

Khi sức khỏe đã bình phục, tôi thông qua anh Song Hào, đề đạt nguyện vọng lên Quân ủy Trung ương, xin ra chiến trường. Và tháng 5/1966, tôi đã được điều vào làm Chính ủy Bộ Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn - Đoàn 559. Khi ấy Tư lệnh Đoàn 559 là đồng chí Phan Trọng Tuệ, sau đó đồng chí trở thành Bộ trưởng Bộ GTVT; Phó Thủ tướng Chính phủ.

- Và ông ở đó bao lâu ạ?

- Thực ra, mới chân ướt chân ráo ở Đoàn 559, đang sốt sắng tìm hiểu tình hình và triển khai công việc thì ngay tháng 7-1966, tôi lại phải chuyển công tác.

- Một năm mà ba lần thay đổi công tác!

- "Đá lăn chẳng mọc được rêu", trong tình cảnh đó thì khó làm được việc gì cho ra tấm ra món. Có lẽ người ta nghĩ rằng ông này bị thương nặng thế chả làm được cái gì hơn nên điều tôi sang làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. Khi Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện ướm hỏi tôi về phân công công việc thì tôi bảo, làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần hay làm gì thì tôi cũng chả ngại, nhưng bây giờ có chiến tranh, tôi phải đến nơi có chiến tranh...

- Đâu có chiến sự thì đấy mới là nơi phải đến.

- Thế là đồng chí Đinh Đức Thiện mới cử tôi đi làm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần tiền phương, phụ trách tuyến Nam Khu 4.--PageBreak--

Không phòng ngự đơn thuần

- Tôi có nghe kể là, mặc dù rất quý ông, nhưng đồng chí Đinh Đức Thiện, với tính "thẳng như ruột ngựa" của mình, đã nói: "Không hiểu cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị đi làm vận tải thì sẽ xoay xở ra sao đây?".

- Đúng là như thế. Khi làm việc xong, anh Thiện vừa động viên, vừa có ý khích tôi, nói: "Cậu từng là Tổng Tham mưu phó, nay lại về chính quê hương tuyến lửa, cậu hãy thử sức trên cương vị mới, trọng trách mới!"…

- Khiển tướng không gì bằng khích tướng!

- Thì cũng chẳng sao. Và vào trong đó rồi, tôi mới phát hiện ra một vấn đề. Thực ra, cái này tôi đã bắt đầu nhìn thấy ngay từ khi vào làm Chính ủy Quân khu 4. Khi chỉ huy sở Quân khu 4 dời lên Nam Đàn, các lãnh đạo đều vào nhà dân ở. Hằng ngày, làm việc xong ra sân rửa mặt thì tôi mới phơi khăn mặt trắng ở sân.

Có cậu bảo vệ đi từng nhà thu những khăn mặt phơi như thế, các nhà khác họ biết, họ cất đi, còn tôi, tôi cứ phơi đấy. Khi thấy cậu bảo vệ đến thu, tôi mới bảo, ơ, khăn của tôi phải để đấy cho tôi chứ! Cậu ấy cự lại, có lệnh là phải thu, chứ không máy bay nó thấy... Tôi hỏi, ai ra lệnh này?

Và tôi bảo, thôi, cháu để đấy cho bác, không việc gì đâu, nhưng bác nói với cháu, máy bay nó nhìn thì nó phải thấy mái ngói to hơn chứ, còn cái khăn này thì chỉ bé như bàn tay thôi (cười). Sau đó, ra họp Quân khu, tôi bảo, tình hình này thì coi như là ta không đánh thắng nổi chiến tranh phá hoại đâu, vì không hiểu địch, hiểu ta…

- Không tri nhân, không tri kỷ…

- Vào Khu 4, tôi thấy tình trạng rất phổ biến lúc đó là: tất cả lấy phòng tránh là chính.

- Không chủ động. Không lấy tấn công mà lấy phòng tránh là chính.

- Phòng tránh là chính, phòng tránh đến nỗi cái đèn pin bọc ba lớp giấy rồi mà vẫn còn cấm. Phòng tránh theo kiểu đó là cực đoan đến cao độ. Cho nên một đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy Nghệ An phản đối việc dùng đèn chiếu sáng thì cũng dễ hiểu thôi.

- Thế ở Bộ Tư lệnh Tiền phương của Tổng cục Hậu cần, ông có phát hiện ra biểu hiện nào của tư tưởng phòng tránh là chính không?

- Khi cần quyết đoán thì mình phải thể hiện, chứ không địch nó cưỡi lên đầu mình ngay. Vào trong đó, tôi thấy, ô tô lúc đó chủ yếu chỉ được chạy ban đêm, mưa cũng chạy ban đêm, nắng cũng chạy ban đêm, sương mù dày dặc cũng chạy ban đêm, chứ ban ngày thì không chạy mặc dù có đường đá. Mà chạy lại chỉ từng chiếc một, mạnh ai nấy đi, không có đội hình gì cả...

Và tôi đã điện về báo cáo cho anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp - HTQ), tôi nghĩ, kiểu này thì không đánh lớn được đâu anh ạ... (cười). Anh Văn bảo tôi ra cho anh gặp. Ra Hà Nội, tôi nói với anh Văn rằng, tư tưởng phòng tránh ăn sâu trong lòng dân, đến cả từ tướng tới lính, thậm chí ở cả cấp rất cao, tất cả đều bị tư tưởng phòng tránh ăn sâu vào đầu rồi, tư tưởng phòng ngự đơn thuần. Đương nhiên, phòng ngự với tấn công là hai mặt của vấn đề, nhưng nếu đơn thuần phòng ngự không thì rất là nguy hiểm...

Một hôm tôi đi kiểm tra trên đường, tôi thấy đường đá nhưng cũng có chỗ lầy, bộ đội ta mới chặt cành cây xanh vất xuống để chống lầy cho xe vận tải đi qua. Tôi tự bảo, đây là "biểu diễn văn công" chứ không phải làm vận tải quân sự, cành cây xanh mà ném vào nước thì tạo thành chất keo khiến xe không vượt nổi...

- Nó dính vào bánh xe...

- Tôi bảo, đá có đầy đây, tại sao các đồng chí không đổ đá vào; mặc dù đi lộp cộp một tí, nhưng vẫn còn hơn. Đó là một sự bất cập.

- Thế còn những bất cập nào nữa mà ông phát hiện ra không?

- Tôi nhớ, khi học ở Học viện Quân sự cao cấp về nước, tới sân bay Gia Lâm, sương mù dày đặc, máy bay không xuống được, phải quay lại sân bay Nam Ninh, Trung Quốc. Sang bên Trung Quốc, tôi mới hỏi các anh em lái là, tại sao về Gia Lâm rồi lại phải quay sang đây? Anh em bảo, khi mây dày đặc như thế thì không thể xuống thấp được. Hỏi tiếp thì tôi được biết là khi đó máy bay đang ở độ cao 300 mét trên mặt đất... 

Đến khi về làm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần tiền phương, lúc ấy có quyền rồi, thì tôi đi kiểm tra thực địa và ngạc nhiên là vì sao ngay cả khi sương mù dày đặc như thế mà xe vẫn không chạy ban ngày. Và tôi quyết định đổi cách chạy xe, những lúc bầu trời bị sương mù che phủ bởi gió mùa đông bắc thì xe có thể chạy ban ngày, ngay cả khi máy bay Mỹ đang gầm rú trên đầu. Không biết tận dụng thiên thời ấy là bỏ phí thời cơ. Cần phải nhớ rằng, gió mùa đông bắc, mưa phùn ở Quảng Bình, Hà Tĩnh là ghê gớm lắm...

- Xin phép được nói với ông rằng, bố tôi, khi ấy là một Binh trạm phó ở Trường Sơn, được trực tiếp chứng kiến cảnh ông đưa ra quyết định tương tự khi vào làm Tư lệnh Đoàn 559, đến bây giờ vẫn thường xuyên nói với tôi rằng, ông đã làm một cuộc cách mạng ở Trường Sơn với quyết định táo bạo đó. Và bố tôi cứ thắc mắc rằng, tại sao lại không phong cho ông danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân?! Tôi mới nói đùa với bố tôi rằng, ở thời của bố, các vị tướng chỉ nghĩ tới việc tặng danh hiệu anh hùng cho những người lính dưới quyền để động viên họ, chứ không ai tự động viên mình bằng danh hiệu ấy cả. Đã là tướng thì dĩ nhiên phải anh hùng rồi thì mới điều binh thắng lợi trong giai đoạn toàn nước sôi lửa bỏng ấy…

- (Cười): Cho tôi gửi lời hỏi thăm tới bố của Hồng Thanh Quang. Và xin kể tiếp. Khi tôi đưa ra quyết định đó, không ít người trong cơ quan tỏ ý lo ngại. Và có người lại phản ánh ra với Bộ Tổng tư lệnh. Và Tổng cục Chính trị lại cử thanh tra vào. Tôi mới nói rằng, các anh cứ yên tâm, ở đây tôi làm theo khoa học thực tế chứ không phải phiêu lưu đâu. Các anh cứ ngồi đây kiểm tra một tuần xem có chuyện gì không, cần thì đi theo tôi, tôi đảm bảo là các anh không ai bị hy sinh đâu (cười). Và cứ thế, hễ trên đài báo sáng mai gió mùa đông bắc, mưa phùn...

- Là ông lại cho xe chạy ban ngày...

- Là cho xe đi. Đi một lần ban ngày bằng 15 lần đi ban đêm. Trước đây đã 2 năm không thực hiện được kế hoạch. Tôi vào làm một tháng thì tình thế thay đổi. Điện về báo cho ông Thiện. Ông Thiện nói ngay, anh đúng là con nhà quân sự có khác. Tôi mới bảo, thế mà ngày xưa anh cho là tôi không làm nổi! (Cười).

Mình cũng biết ông Thiện là người chân thật, đứng đắn, tranh luận thẳng thắn, không sợ gì cả. Ông bảo, tôi ủng hộ anh, mình phải có cách làm của mình, chứ phụ thuộc thì chỉ bét thôi (!). (Cười). Tôi làm trong hai tháng thì xong kế hoạch cả năm! 

Xong rồi, đến tháng 12, anh Văn phái ông Thiện vào nói với tôi, thôi, bây giờ anh kiêm luôn cả Đoàn 559, vì cách làm của Đoàn 559 cũng giống như bộ phận tiền phương ở đây. Tôi bảo, nếu khó, càng khó, thì tôi càng đi, càng xin đi làm. Và tháng Giêng năm 1967, tôi được cử sang làm Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn...

- Tôi biết câu chuyện làm Tư lệnh của ông ở Đoàn 559 rất kỳ thú. Nhưng có lẽ đó sẽ là nội dung của cuộc trò chuyện sau, nếu ông cho phép. Tôi chỉ muốn hỏi ông thêm một điều trong buổi trò chuyện hôm nay. Tôi nghe rất nhiều chuyện về thái độ và sự ưu ái của ông đối với đội ngũ văn nghệ sĩ ở Trường Sơn, đặc biệt là anh Phạm Tiến Duật. Ông có nhớ lần đầu ông gặp anh Duật thế nào, làm sao ông phát hiện ra ở một anh lính bình thường tư chất nhà thơ để từ đó ông có chính sách ưu ái như thế?

- Lần đầu tiên tôi biết tới cái tên Phạm Tiến Duật là lúc đang ở Bộ Tư lệnh 559 thì nhận được điện từ Binh trạm 12 gọi vào báo cáo, có một anh nhà thơ vào, nhưng anh ấy không chịu đi theo đường giao liên mà lại cứ đòi ngồi  ô tô. Nhưng ngồi ô tô đi là nguy hiểm lắm, chúng tôi không dám cho đi... Tôi trả lời, một nhà thơ như thế thì chưa cần làm thơ cũng đã là nhà thơ rồi, các anh cứ cho lên ngồi xe đi, không bắt đi theo đường giao liên. Chính nhờ đi như thế nên Duật đã viết được bài thơ đầu tiên, Tiểu đội xe không kính  (cười). Một con người như thế xứng đáng được kính trọng!

- Dũng cảm!

- Dũng cảm! Khi Duật gửi lên cho tôi bài thơ Tiểu đội xe không kính, tôi thấy người thế này mà ở Trường Sơn là đúng rồi. Tôi mời lên Bộ Tư lệnh gặp, bảo, chú ở đây, gì chứ đậu xanh thì thừa, chú cứ việc làm thơ... Nhưng tay này lại thích đi, không ngồi yên một chỗ được. Tôi bảo, cậu triệu tập thêm bạn bè làm thơ vào đây. Sau đó có tới 13 đoàn văn công vào. Tôi vẫn nói, văn công cũng là một binh chủng, binh chủng này động viên thì là nhất!

- Vâng, rất quan trọng đối với tinh thần của mọi người. Xin cảm ơn ông và chúc ông luôn mạnh khỏe!

H.T.Q.
.
.