"Tôi để lại không mang theo gì cả/Thật nhẹ nhàng, như gió, lúc ra đi"

Thứ Ba, 29/09/2009, 15:03

Thế là đã bảy năm kể từ ngày nhà thơ Bế Kiến Quốc - Tổng Biên tập Báo Người Hà Nội từ giã cõi đời lắm khổ đau và cũng nhiều hạnh phúc này. Thời gian ghê gớm thật, mới đấy thôi mà nó tưởng như đã xoá bỏ những dấu tích còn lại về một con người, một nhà thơ.

Tưởng như cứ nằm xuống là con người sẽ bị thời gian phủ lên ngay một lớp bụi dày của sự quên lãng rất vô tâm, nhất là vào cái thời hối hả sống, hối hả quên trong các đô thị chật ních người và khói bụi công nghiệp này.

"Tất cả cái no vô nghĩa - nếu chỉ đói một người"

Suốt một đời trằn trọc với công việc thầm lặng của người làm thơ, Bế Kiến Quốc dường như rất ít khi ngủ trước một, hai giờ sáng. Anh thường viết về đêm nhưng lại hút thuốc quá nhiều. Tôi đã từng thấy anh lục ngăn kéo bàn viết mỗi đêm, nếu chỉ còn một bao thuốc là Quốc không yên tâm, phải tìm cách bổ sung ngay cho đủ "cơ số" ni-cô-tin để đối mặt với trang viết qua từng đêm trắng. Anh hút thuốc ngay cả lúc ốm mệt và trong những cơn ho. Khi ấy, Quốc thường bôi đẫm dầu cao Sao Vàng bên ngoài điếu thuốc và tiếp tục hút. Quốc hút thuốc và làm thơ từ thời còn là học sinh cấp III, hút hối hả và viết cần mẫn cho đến cuối đời.

Là người trầm tính và luôn nghiền ngẫm, ở giữa mọi người, Bế Kiến Quốc thường lắng nghe và cần mẫn làm việc nhiều hơn là nói. Chỉ có lúc nào đó ngồi tri kỷ với bạn bè thân thiết, anh mới bộc lộ hết tâm trạng và những dự định, hoài bão của mình về văn chương, thời cuộc và đọc thơ. Nhìn Quốc chậm rãi đọc thơ, gương mặt ưu tư có lúc hửng lên, có lúc chập chờn tái lặng sau làn khói thuốc. Trông anh lúc đó giống như một nhà tư tưởng, một tín đồ khổ hạnh của thơ ca hơn là một nghệ sĩ theo cái nghĩa thông thường của nó. Bởi sau nhiều ngày phải thức trắng đêm, anh đã hút biết bao nhiêu thuốc và bòn rút từ chính tim phổi của mình những đợt sóng hưng phấn cho sáng tác mới.

Nổi tiếng về thơ ngay từ thời còn là sinh viên Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, Bế Kiến Quốc đã đoạt giải nhì cuộc thi thơ toàn quốc của tuần báo Văn Nghệ năm 1969. Tuy thành đạt sớm về thơ, nhưng Bế Kiến Quốc vẫn luôn là người khiêm nhường, lặng lẽ. Anh không thích những "tuyên ngôn" ồn ào về thơ ca có tính khoe khoang, phô trương hình thức. Bởi thật ra, kể cả về mặt lý luận, phê bình thơ lẫn sáng tác, trong nhiều năm Bế Kiến Quốc đã có hẳn một cái nền tri thức rất cơ bản, phong phú về nhiều mặt.

Anh tự bạch: "Theo tôi, thơ có giá trị là thơ phải nâng cao tâm hồn con người. Những nhà thơ thành công là những nhà thơ nói được tiếng nói của thời đại, của đất nước, chứ không phải những nhà thơ chỉ có kỹ thuật cao. Và, điều quan trọng là thơ phải luôn luôn hướng về phần sáng của cuộc đời".

Trong bài thơ "Nhớ" Na-dim Hik-mét, Bế Kiến Quốc viết: "Tất cả cái no vô nghĩa/ Nếu chỉ đói một người/ Tất cả vô nghĩa niềm vui/ Nếu chỉ buồn đau còn một người/ Tất cả tự do cũng vô nghĩa/ Nếu chỉ một người bị nô lệ/ Tất cả công bằng cũng là không/ Nếu còn một người chịu bất công/ Nhà thơ ơi/ Thế giới vô bờ, biển khổ mênh mông/ Đừng nói mọi điều đã làm xong/ Khi anh chưa phải người sau cùng/ Thanh thản đến ngồi dưới bóng cây và khóc".

Cho đến giờ, hình ảnh Bế Kiến Quốc vẫn còn tươi nguyên trong ký ức bạn bè văn chương, báo chí và trong những bài thơ mà anh để lại. Anh là một nhà báo đầy tâm huyết, sáng tạo và giầu nghị lực. Hơn thế nữa, ở anh luôn tràn đầy niềm tin yêu vào sự tốt lành và cái thiện trong mỗi con người, cũng như luôn luôn trăn trở, thao thức trước nỗi bất công mà mỗi một số phận phải gánh chịu.

"Như người mẹ-ai có quyền chọn lựa"

Trong những năm báo chí cùng với đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, một loạt ký sự trên Báo Văn nghệ đã gây tiếng vang lớn trong dư luận cả nước. Một trong những tác giả nổi bật thời điểm ấy là nhà báo Phùng Gia Lộc, người đã phải lánh nạn "cường hào mới" ở xã Phú Yên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá đến tá túc ít tháng tại gia đình Bế Kiến Quốc - Đỗ Bạch Mai (lúc đó đang ở nhờ một căn buồng của Báo Văn nghệ, 17 Trần Quốc Toản, Hà Nội). Trước đó, vào năm 1980, trong một chuyến đi công tác vào Thọ Xuân, Thanh Hoá, vợ chồng Bế Kiến Quốc đã quen biết với Phùng Gia Lộc, lúc đó đang là cán bộ văn hoá của huyện Thọ Xuân.

Sáu, bảy năm sau, khi ra Hà Nội tìm vợ chồng Bế Kiến Quốc ở Báo Văn nghệ thì Phùng Gia Lộc đang gặp hoàn cảnh khá bi đát ở quê hương. Sau khi kể cho Quốc nghe nỗi "đoạn trường" mà những người nông dân ở một số làng quê của huyện Thọ Xuân đang phải nếm trải, được sự động viên của Quốc và một số bạn bè văn chương, Lộc đã viết luôn 2 bài ký "Cái đêm hôm ấy đêm gì" và "Sau cái đêm hôm ấy đêm gì" (do Bế Kiến Quốc biên tập) đăng trên Báo Văn nghệ đã làm xôn xao dư luận cả nước.

Theo đánh giá của nhà báo Lê Xuân Kỳ về tính tích cực của các bài ký này: "Trên mặt báo, Lộc đã gửi thông điệp nhắc nhủ toàn xã hội: Nông thôn Việt Nam, nông nghiệp Việt Nam đang có vấn đề, đang kêu cứu và cần được đổi mới. Công của anh là ở chỗ đó. Nhiều người cũng nghĩ như Lộc, cũng có thực tế và chữ nghĩa, nhưng không đủ dũng khí và tâm huyết để viết lên giấy. Bài báo có tiếng vang lớn trong cả nước, được hoan nghênh, nhưng ở quê của Lộc, cả xã chỉ có một thầy giáo đặt báo nên phản ứng không mãnh liệt như người ta đồn và điều đáng quý là mọi người đã tự điều chỉnh được…".

Sau các bài ký ấy, Phùng Gia Lộc trở về quê hương, tiễn ông đi, bạn bè ở Báo Văn nghệ quyên góp được dăm chục cân gạo, ít quần áo, chăn màn cho gia đình anh. Năm 1992, Phùng Gia Lộc qua đời, một con người quanh năm suốt tháng phải vật lộn với khốn khó để mưu sinh, mà văn chương nhiều khi cũng chẳng mang lại cơm áo cho người cầm bút.

Những năm sau đó, Bế Kiến Quốc và một số bạn bè văn chương, báo chí cả nước còn một số lần quyên góp, gửi tiền về giúp đỡ gia đình cố nhà báo Phùng Gia Lộc. Tình cảm nồng ấm này còn được Bế Kiến Quốc nhắc đến trong bài thơ "Nhớ bạn" trong một dịp cùng họa sĩ Thành Chương về thăm gia đình Phùng Gia Lộc ở Thọ Xuân, Thanh Hoá: "Ta theo như mộng/ bạn đã mùa đông/ Cát trơ bờ cạn? Chu đấy ư sông/ Đời người thấm thoát?/ Tri kỷ nhiều đâu/ Đời sông bao chốc/ Thay mấy phen cầu/ Đầu làng cổ thụ/ Chờ ta mà già/ Bạn đừng khuất nữa/ Sông đừng nước qua…".

Khi nhắc đến Bế Kiến Quốc, người ta thường nói đến người bạn tri âm, tri kỷ nhất của nhà thơ là họa sĩ Thành Chương. Chơi thân thiết và gắn bó với nhau như bóng với hình suốt hơn hai mươi năm làm ở Báo Văn nghệ, tình bạn đặc biệt của họ còn ảnh hưởng tới một số quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhau.

Họa sĩ Thành Chương bùi ngùi cảm động nhớ lại: "Có một số người chỉ đánh giá cao thơ Bế Kiến Quốc trên những tập thơ in sau lúc nhà thơ qua đời. Riêng tôi thì tôi đánh giá cao phẩm chất tài năng thơ của Quốc ngay khi ông còn sống. Chính vì thế góc độ bạn bè, tôi thường tâm sự với Quốc: Ông chỉ nên làm thơ thôi - đừng nên làm lãnh đạo vì cái ông để lại cho đời là thơ ca, đấy mới là sự nghiệp chính của đời ông, cho nên tôi muốn ông chuyên tâm về việc đó.

Trong cuộc đời tôi, điều may mắn nhất là có được một người bạn thân thiết và tâm giao như Bế Kiến Quốc. Ít người biết rằng, trong một số giai đoạn sáng tác hội họa của tôi, Bế Kiến Quốc lại có những "cú hích" mở đầu quyết định. Cho đến nay, nhiều người không hiểu vì sao tôi lại vẽ tự họa nhiều đến thế. Nhưng mọi việc bắt đầu từ một lần Bế Kiến Quốc tặng một bức chân dung gương mặt tôi do chính anh vẽ, với những đường nét giản đơn, rất hay mà lại hiện đại. Tôi thao thức mãi về bức chân dung này và phát hiện ra gương mặt con người có rất nhiều nét biểu cảm đầy tính suy tư của hội họa. Từ đấy, tôi vẽ tự họa rất nhiều bằng các thể loại: sơn dầu, sơn mài, bột mầu… và tạo nên một phong cách tự họa riêng. Thật ra, tự họa là mảnh đất mà mình được phép tự do sáng tạo nhiều nhất, vì không ngại ngần va chạm đến ai cả, vì mình chỉ vẽ chính mình chứ có vẽ gương mặt ai đâu. Nhưng cái bước ngoặt và động lực chính khiến tôi vẽ tự họa nhiều lại là từ Bế Kiến Quốc đấy!

Tương tự như vậy, một bài thơ của Bế Kiến Quốc cũng chính xuất phát từ một câu chuyện do tôi kể lại về một lần có một đám khách nước ngoài (người Mỹ) đến mua tranh của tôi, họ hỏi chuyện và tôi cũng kể về cuộc đời của tôi trong những năm tháng chiến tranh khi xung phong vào bộ đội ra chiến trường chống Mỹ. Nghe tôi kể chuyện đó, một cậu phiên dịch có khuyên tôi: "Nếu anh nói về chuyện ấy thì có thể họ sẽ ngại anh và không mua tranh của anh nữa đâu". Tôi nói với cậu ta rằng: "Tôi sẽ vẫn nói tất cả những chuyện ấy, tôi là tôi và tôi đã lựa chọn con đường ấy và không bao giờ chối bỏ cả, còn chuyện họ có mua tranh của tôi hay không lại là chuyện khác".

Khi tôi kể chuyện này cho Bế Kiến Quốc nghe, ông rất xúc động và sau đó có làm một bài thơ có những câu sau: Như người mẹ, ai có quyền chọn lựa?/ Xin cảm ơn buồng trứng, bầu sữa và lời ru của mẹ/ Chúng ta không thể không thuộc về đâu cả/ Khi tôi làm thơ, khi bạn vẽ/ Ta yêu thương, ta dại khờ, lầm lỡ/ Trong một đời đầy thử thách ta qua? Xin cảm ơn đồng đội đã cùng ta/ Chung cơn đói, chia niềm vui nỗi khổ/ Người con gái ta yêu và cũng yêu ta/ Xin cảm ơn mái tóc, làn môi, đôi tay, cặp vú/ Ta chọn lựa và ta không chối bỏ…".

Con người Bế Kiến Quốc cũng giống như thơ anh, luôn yêu tin cuộc đời, luôn hướng về phần tốt đẹp của con người. Tình yêu ấy hồn nhiên đến ngây thơ và đấy là phẩm chất của đức tin nơi anh. Hình như đã từ lâu, các nhà thơ đã được coi là người tiên tri sớm về nhiều việc và họ thường có những câu thơ định mệnh. Bế Kiến Quốc cũng như vậy khi anh viết những câu thơ sau "Tôi phải đi một ngày khi đã tận/ Yêu đã xong, ân oán cũng xong rồi/ Tôi tịch diệt giữa cõi trần bụi bặm/ Ánh hào quang lìa hẳn cảnh luân hồi/ Có thương tiếc cũng đừng thương tiếc quá/ Buồn đủ buồn như mọi cuộc chia ly/ Tôi để lại không mang theo gì cả/ thật nhẹ nhàng như gió lúc ra đi"

Nguyễn Việt Chiến
.
.